Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
202514

Công tác dân vận và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Ngày 13/11/2017 09:33:43

công tác dân vận

 Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cấp ủy các cấp,công tác dân vận nói chung, công tác dân vận của chính quyền của tỉnh nói riêng đã có chuyển biến rõ nét. Chính quyền các cấp phát huy dân chủ trong xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách, chủ động nắm tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng, giải quyết kịp thời những kiến nghị, những vấn đề bức xúc của nhân dân; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai các chủ trương, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân thi đua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh.  

Bi thu Thanh Hoa nhan khuyet diem voi dan Sam Son hinh anh 1

(  Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến trong buổi đối thoại với người dân Sầm Sơn sáng 7/3/2016 )

Tuy nhiên, vẫn còn một số nơi chính quyền và cán bộ công chức chưa thường xuyên quan tâm đến công tác dân vận, còn biểu hiện quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh, đôi khi thực hiện chưa hết chức trách, nhiệm vụ được giao. Một số cán bộ công chức, viên chức chưa nắm được nội dung và chưa hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, còn diễn ra ở một số nơi, gây dư luận không tốt trong nhân dân. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính còn chậm, cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, “một cửa điện tử hiện đại” chưa phát huy hết tính tích cực. Việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại tố cáo của công dân có một sốvụ việc phức tạp còn để kéo dài. Việc làm đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và chính quyền cơ sở.

            Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 290-QĐ/TW  ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị,  trong đó có quy định rất cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ tỉnh đến cơ sở về thực hiện công tác dân vận. Để thực hiện có hiệu quả Quyết định 290 của Bộ chính trị cần quan tâm một số nội dung sau:

          Thứ nhất:  Luôn xác định rõ chất lượng công tác dân vận của chính quyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ quan (năng lực của chính quyền) và yếu tố khách quan (sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; hướng dẫn giúp đỡ của cấp trên; sự ủng hộ tham gia của nhân dân; các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội...). Trong các yếu tố tạo nên chất lượng công tác dân vận của chính quyền, yếu tố chủ quan luôn đóng vai trò quyết định trực tiếp; các yếu tố khách quan có vai trò quan trọng và không thể thiếu.

          Thứ hai: Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang... về vai trò, vị trí của công tác dân vận; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận trong thời kì mới; nhiệm vụ dân vận do cấp ủy đảng đặt ra. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận, mỗi cán bộ công chức, theo chức trách của mình xác định nhiệm vụ trọng tâm thực hiện công tác dân vận, đồng thời vận dụng phương châm, phương pháp dân vận phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế ở địa phương, cơ sở.

          Thứ ba:  Thường xuyên chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thực thi có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính. Đổi mới phương thức, quản lí, điều hành, xây dựng phong cách làm việc "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân". Đảm bảo để chính quyền có đủ năng lực, hiệu quả, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu và đòi hỏi của người dân.

          Thứ tư: Triển khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, các Nghị định của Chính phủ quy định thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở; Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh. Có quy định cụ thể để các thành viên trong hệ thống chính trị tỉnh, huyện xã  đôn đốc theo dõi và giám sát lẫn nhau trong việc thực hiện Quy chế.

          Thứ năm:  Quan tâm giải quyết kịp thời những nhu cầu và đòi hỏi thiết yếu của nhân dân. Thực hiện tốt quy định về chế độ tiếp công dân, giải quyết kịp thời những thắc mắc, kiến nghị của công dân ngay khi vụ việc mới xuất hiện, không để vụ việc kéo dài dẫn tới đơn thư vượt cấp, hoặc hình thành điểm nóng. Xây dựng và ban hành cơ chế cụ thể để khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người dân đều có thể thực hiện quyền làm chủ theo quy định của pháp luật.

          - Chính quyền cần chủ động phối hợp và nâng cao chất lượng hoạt động phối hợp với mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật; trong triển khai thực hiện các chương trình, dự án; vận động, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường, giữ gìn ạn ninh trật tự....ở các địa bàn dân cư./.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, đạt được những kết quả quan trọng.

d2.jpg


          Nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Vì vậy, được nhân dân đồng tình hưởng ứng và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác vận động nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội thường xuyên được kiện toàn, củng cố và phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tích cực đổi mới phương thức hoạt động và các hình thức vận động nhân dân,  xây dựng và triển khai kế hoạch, hướng dẫn đăng ký mô hình, điển hình thực hiện phong trào thi đua "Dân vận khéo"tới các ban, ngành, đoàn thể, các chi bộ, tổ dân vận trực thuộc nhằm vận động nhân dân tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, gắn với việc: "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư"; Chỉ đạo các ngành, đoàn thể và các chi bộ tổ chức triển khai tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, thường xuyên tuyên truyền trên hệ thống đài truyền thanh về các gương điển hình, mô hình "Dân vận khéo" của xã; chỉ đạo MTTQ, các đoàn thể chính trị, các tổ chức hội quần chúng phát động phong trào thi đua "Dân vận khéo" trong tổ chức của mình;  Khối dân vận, UBND, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên gần dân, nắm bắt tình hình dư luận nhân dân để tham mưu với Đảng uỷ kịp thời chỉ đạo giải quyết những vấn đề bức xúc dân sinh, không để phát sinh thành điểm nóng; Nâng cao hiệu quả quản lý trên địa bàn theo hướng văn minh. Đảng bộ các cấp chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt nghị quyết của Đảng uỷ cấp dưới, tổ chức tốt hội nghị nhân dân bàn việc thực hiện nếp sống văn minh đô thị "Giữ gìn nhà-hè-đường x㠖 xanh - sạch - không rác"; đảm bảo an sinh xã hội. Chỉ đạo tổ chức ngày hội đại đoàn kết toàn dân vào dịp kỷ niệm ngày thành lập MTTQ Việt Nam hàng năm.

Tuy nhiên, qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác dân vận vẫn còn một số tồn tại,  hạn chế như:  Việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát về công tác dân vận còn hạn chế, có lúc thiếu kịp thời; việc nắm bắt tình hình tư tưởng, nguyện vọng, dư luận của nhân dân có lúc chưa đầy đủ. Sự phối hợp trong công tác vận động quần chúng giữa các ban, ngành, đoàn thể trên một số lĩnh vực chưa đồng bộ, công tác tham mưu có lúc thiếu kịp thời. Công tác dân vận ở một số cấp ủy chi bộ chưa được quan tâm đúng mức. Một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn biểu hiện sự quan liêu và thiếu tôn trọng nhân dân trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc tiếp nhận hẹn trả kết quả còn chậm so với thời gian quy định, nhất là trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử đất. Quán triệt tinh thần các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tỉnh và huyện về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, với những quan điểm mới. Đảng ủy các xã phải được cụ thể hóa bằng Nghị quyết, Chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu quả trong công tác dân vận của xã, tăng cường chỉ đạo khối dân vận Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các cấp ủy chi bộ triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ.

Yêu nước thương dân, đấu tranh không mệt mỏi vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, coi sự hy sinh ấy là hạnh phúc lớn nhất của đời người, sống vì dân, gần gũi với dân, thấu hiểu tâm trạng, nguyện vọng của  dân để làm tất cả những gì có thể đem lại lợi ích cho dân…Đó là nét nổi bật nhất, quy tụ tất cả những gì làm nên sự vĩ đại của trí tuệ, tâm hồn lớn và nhân cách lớn Hồ Chí Minh.

( Phong cách dân vận gần gũi và thiết thực của Bác )

Thực tế nghiên cứu chữ Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của nó một cách toàn diện, cách mạng và khoa học. Tùy vào những hoàn cảnh khác nhau, Người đã dùng những khái niệm dân, nhân dân, quần chúng, đồng bào một cách phù hợp và rất gần gũi, quen thuộc với cách nói hàng ngày của người Việt Nam. Dân, theo Hồ Chí Minh, là mọi người dân nước Việt Nam, là mọi “con dân nước Việt”, là “con Rồng, cháu Tiên”, là “con Lạc, cháu Hồng”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”, là bất kỳ “đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc”.

Vận dụng sáng tạo quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết tinh truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Dân là lực lượng sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, không ai thông minh, trí tuệ, sáng tạo bằng dân chúng; không ai tốt bằng dân chúng; không ai hăng hái như dân chúng, không ai dũng cảm bằng dân chúng; không ai nhìn thấu bằng dân chúng… Từ đó, Người khẳng định: Dân là gốc của nước, “gốc có vững, cây mới bền”, dân có giàu nước mới mạnh; dân là lực lượng vô tận để dựng nước và giữ nước; dân là chủ, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”… Nói chung, có dân là có tất cả, không có gì quý bằng nhân dân, không có lực lượng nào mạnh hơn lực lượng đoàn kết của nhân dân, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, Khó vạn lần dân liệu cũng xong”

Nước ta là nước dân chủ. Điều này được khẳng định chỉ với 73 chữ, được sắp xếp trong 7 câu, ở mỗi câu đều có chữ dân, trong đó có 1 lần "vì dân", 2 lần "do dân", 3 lần "của dân" và câu thứ 7 khẳng định: "Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ". Vậy là, ngay từ những ngày đầu có chính quyền, Bác đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Không dừng lại ở đó, Người còn đề cập đến Đảng, đoàn thể hay nói cách khác là hệ thống chính trị của ta đều có bản chất chung là của dân, do dân và vì dân. Quan điểm của Bác xác định rõ dân chủ là cái chìa khóa vạn năng mở mọi cánh cửa và trở thành nền tảng của công tác dân vận.  Người đã đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho". Dân vận thuộc trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Chúng ta cần quán triệt phương châm "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm".  

Đặc biệt nhất là câu kết bài đặc sắc, súc tích, tinh túy và trở thành câu nói kinh điển dành cho những ai làm công tác dân vận: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Chỉ trong 29 chữ, câu kết bài đã khái quát đầy đủ ý nghĩa tầm quan trọng của công tác dân vận. Nếu bài Dân vận là một hạt ngọc trong chuỗi ngọc Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì câu kết bài chính là kết tinh làm nên sự tỏa sáng của hạt ngọc ấy.

Những chỉ dẫn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra cho chúng ta gần bảy mươi năm qua đến nay vẫn mang tính thời sự mới mẻ và trở thành bài học của mọi bài học về công tác dân vận. Chúng ta luôn khắc ghi lời nhắc nhở của Bác: Đối với dân phải nâng cao trình độ để xứng đáng là người làm chủ, trách nhiệm của người làm chủ bởi vì “Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”, “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; điều quan trọng hơn cả là trách nhiệm của Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tập hợp, giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo dân, phát huy được sức mạnh vô tận của dân góp phần gặt hái thành công trong sự nghiệp cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng hiện nay, điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế… có nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tình hình tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng ta xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, củng cố tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thực tế đã chứng minh, từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận như: Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc khóa XII; Nghị quyết số 25; kết luận 114 của ban bí thư; Chỉ thị số 16 của thủ tướng chính phủ … đã xác định: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Công tác vận động nhân dân phải năng động, sáng tạo về nội dung, đa dạng về phương thức hoạt động và tổ chức. Trách nhiệm dân vận là của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội, không chỉ là trách nhiệm riêng của đoàn thể.

Nghị quyết số 25-NQ/TW về “tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương ra đời càng khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận. Nghị quyết chỉ rõ: “Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe”.

Đảng ta chú trọng vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó chú trọng công tác dân vận. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII yêu cầu: “Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tôn trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân”. 

Nói tóm lại, dù bất cứ giai đoạn nào, gắn với quá trình cách mạng của Việt Nam công tác dân vận luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Để góp phần nâng cao nhận thức lý luận về công tác dân vận, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói chung và những quan điểm của Người trong tác phẩm “Dân vận” nói riêng có ý nghĩa to lớn cả về tầm lý luận và thực tiễn. Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh, tác phẩm Dân vận của Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt, ngày càng ăn sâu, bén rễ vào cuộc sống và lấy đó làm kim chỉ nam cho công tác dân vận:“Dân vận kém thì việc gì cũng kém; dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”./

  Cả trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Một là, công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng không có lợi ích nào khác “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”; Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Trước lúc đi xa Người còn không quên căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.Hai là, thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.Với quy trình bốn điểm về dân vận và công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc, được Đảng ta tổng kết thành phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã nói lên vai trò của việc thực hành dân chủ trong công tác dân vận. Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.Ba là, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết là thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bởi vậy, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận’, “đồng hưởng” của toàn dân, từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết, dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Bốn là, dân vận và công tác dân vận là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất. Là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác dân vận. Dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường.  Là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân, song công tác dân vận phải được tiến hành thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc. Tuỳ theo các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976)… nhưng thực chất chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động,  qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo, Nhà nước thực hiện sự quản lý, nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hành công tác dân vận.Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới,  phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của tổ chức và mỗi người dân, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; nhất là các quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo”. Cần thiết phải nhắc lại năm chủ trương và giải pháp lớn được Đảng ta đề cập trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” để quán triệt: xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân tộc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức của các cấp, các ngành phải có chuyển biến nhận thức sâu sắc về vai trò, mục đích, qui trình, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong giai đoạn mới làm cơ sở cho công tác dân vận.Thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cơ sở, sáng tạo và thực hiện có hiệu quả những hình thức, phương pháp dân vận phù hợp với mỗi địa phương và từng cơ sở. Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Phát huy hơn nữa việc thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, phương pháp dân vận thích hợp là yêu cầu của công tác dân vận trong thời kỳ mới; đồng thời phải gắn công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh tức là dân vận phải khéo: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các cấp, các ngành. Công tác dân vận là công việc của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, song tổ chức trực tiếp làm công tác dân vận đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, mà không vận được cũng mặc.  Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Đã đến lúc cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận từ trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần và pháp lý cho các tổ chức làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vừa “có tâm” vừa đủ “tầm”. Cán bộ làm công tác dân vận phải có tác phong: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Yêu cầu óc nghĩ đòi hỏi người làm công tác dân vận phải có trình độ, có năng lực làm công tác dân vận. Yêu cầu “mắt trông, tai nghe, chân đi” đòi hỏi người cán bộ phải sát cơ sở sát thực tế, đến với dân, phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Cán bộ vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, là công bộc của dân”. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.Hồ Chí Minh đã từng nói: Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua. Thông qua phong trào thi đua yêu nước, nhiều hình thức, phương pháp dân vận được áp dụng có hiệu quả vào thực tế; nhiều hình thức, phương pháp mới nảy sinh, nhiều kinh nghiệm mới được tổng kết.Trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng, Đảng ta luôn phát động phong trào thi đua yêu nước. Mặc dù với những hình thức và nội dung có khác nhau, song mục đích chung vẫn là khơi dậy và phát huy tất cả các lực lượng của mỗi người và của mọi người tạo thành lực lượng toàn dân, vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình – xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cần phải tồ chức và thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, để nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

          Nhìn lại chặng đường thực hiện đường lối đổi mới, cả về thành tựu và hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta rút ra 5 bài học quan trọng, trong đó có bài học “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đây là bài học sâu sắc, là sự kế thừa ý thức “dân là gốc” của ông cha ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Đặc biệt, từ ngày có Đảng, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của nhân dân, quan tâm sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc”. Người còn khẳng định “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh”. Tư tưởng đó được Đảng ta nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo từ các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đến lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thì một trong những nhiệm vụ quan trọng về xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay là “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Theo đó, nghị quyết đưa ra mục tiêu rất rõ của công tác dân vận: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội XII xác định giải pháp đầu tiên mà cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện là tổ chức tốt việc học tập, quán triệt nội dung công tác dân vận của Đảng. Tổ chức học tập, quán triệt tốt nghị quyết của Đảng không chỉ góp phần nâng cao nhận thức, mà còn là cơ sở để xây dựng và ban hành chương trình hành động thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận.

Nội dung cốt lõi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận là quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, về tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Trên cơ sở các nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tình hình thực tế của từng đảng bộ, để các cấp, các ngành, các đơn vị xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết cho địa phương, tổ chức mình một cách phù hợp, hiệu quả. Chương trình hành động phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp khả thi nhất để tổ chức đưa nghị quyết vào cuộc sống, trong đó quan tâm các nguồn lực (bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực) để có cơ sở, điều kiện thực hiện.

( Công tác tập hợp nhân dân của cấp ủy cơ sở tại xã Sơn Thủy )

Cùng với đó, từng cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, xây dựng hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả. Trên cơ sở đó, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, để mỗi đảng viên đều nêu gương cho quần chúng noi theo. Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng chính là thông qua việc ban hành các quy chế, quy định, quy trình phù hợp. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Thực hiện công tác dân vận theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng chính là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Theo đó, để nắm được những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân thì từng cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, các đại biểu dân cử phải thường xuyên sâu sát cơ sở, sâu sát nhân dân, lắng nghe ý kiến góp ý, phản ảnh của các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, sinh viên… Trên cơ sở trực tiếp gặp nhân dân, qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các buổi tiếp dân mà tập hợp những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân để phản ảnh cho cấp ủy, các cơ quan chức năng của nhà nước giải quyết kịp thời. Các cấp ủy đảng, các cơ quan quản lý nhà nước cần lập đường dây nóng, hộp thư điện tử để người dân phản ảnh, kiến nghị nhanh nhất, đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ quan thông tấn báo chí hoạt động thuận lợi phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri, của cơ sở. Cấp ủy, chính quyền phải tổ chức đối thoại trực tiếp với dân, nhất là những nơi còn tồn tại các vấn đề bức xúc có thể trở thành “điểm nóng”. Chỉ đạo tốt công tác tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tùy tình hình và mức độ khác nhau ở từng địa phương, nhưng những vấn đề mà đông đảo nhân dân quan tâm, bức xúc lâu nay như việc làm, đền bù, giải phóng mặt bằng đất đai, tham nhũng, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, ma túy… cần được cấp ủy, cơ quan nhà nước tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả.

Lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.  

( Cần, kiệm, liêm, chính là phong cách dân vận “ Khéo” nhất. )

Trước hết, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhất là nội dung “nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực tiễn chứng minh, nghị quyết của Đảng chỉ có thể đi vào cuộc sống khi được nhà nước thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, thành kế hoạch, thành các chương trình, đề án và có nguồn lực cụ thể để các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện. Thời gian qua, mặc dù Quốc hội, Chính phủ đã rất tích cực xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, nhưng thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề cần được tập trung giải quyết. Bởi vậy, để phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các cơ quan chức năng cần phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chính sách, luật pháp hoặc bổ sung, sửa đổi những vấn đề bất hợp lý trong các văn bản pháp luật đã ban hành.

Tiếp tục lãnh đạo, tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ-pháp quyền, quy định rõ trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, đẩy nhanh việc áp dụng Chính phủ điện tử...

Cùng với những vấn đề nêu trên, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận. Nhận thức đúng vị trí, vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận để có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công tác dân vận...

Thực hiện hiệu quả chủ trương, giải pháp về công tác dân vận theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng không chỉ góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, mà còn là giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

*. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở: Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.

          Những năm qua, Uỷ ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trên địa bàn tỉnh đã tích cực, chủ động tham gia vào việc chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ  (QCDC) ở cơ sở. Từ đó, góp phần làm chuyển biến quan trọng trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát huy dân chủ xây dựng chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở được thể hiện rất rõ nét trong công tác tuyên truyền về QCDC và triển khai thực hiện ở xã, phường, trong các cơ quan nhà nước. Việc tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, người sử dụng lao động, người lao động được chú trọng. Các đơn vị cũng tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với kiểm tra về công tác chuyên môn. Đồng thời, thường xuyên tổ chức đối thoại, lắng nghe ý kiến của đoàn viên, hội viên và nhân dân, đặc biệt là những vấn đề nhân dân quan tâm, như: Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, chính sách đất đai, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp...

MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội đã kịp thời nắm bắt, phản ánh các kiến nghị, chủ động tham mưu, đề xuất giải quyết các vụ việc kiến nghị, khiếu nại kéo dài, đông người, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên.   đã chủ động hướng dẫn các cấp công đoàn phối hợp với chuyên môn đồng cấp xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; tổ chức hội nghị CBCCVC và người lao động. Việc ký kết thoả ước lao động tập thể được các cấp công đoàn giám sát theo đúng trình tự quy định của pháp luật; đa số thoả ước lao động tập thể có quy định có lợi cho người lao động.  Kịp thời giải quyết những vướng mắc, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định. Thông qua hội nghị, quyền dân chủ của người lao động được phát huy; nhiều ý kiến, kiến nghị đã được quan tâm ghi nhận và trả lời công khai.  

Trong thực hiện QCDC cơ sở ở xã, phường, thị trấn, MTTQ các cấp trong tỉnh đã thực hiện rất tốt công tác tổ chức các cuộc bầu cử, tiếp xúc cử tri... Điều này thấy rất rõ trong cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua. MTTQ các cấp đã hoàn thành tốt công tác hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; tổ chức đúng quy trình, luật định, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn giới thiệu người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND ba cấp của tỉnh.  MTTQ các cấp đã phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng các tầng lớp nhân dân, hướng dẫn và phối hợp tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, cử tri và nhân dân tích cực tham gia bầu cử.  Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội phường đã tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, kiểm tra công tác chuẩn bị cơ sở vật chất... Chúng tôi sẽ chuẩn bị tốt nhất để phục vụ nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình”.

MTTQ các cấp cũng phối hợp tốt với chính quyền cùng cấp xây dựng kế hoạch, lịch cụ thể để tổ chức các hội nghị tiếp xúc cử tri của ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp. Qua đó nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân đã được kịp thời giải quyết, góp phần giảm các vụ khiếu nại, tố cáo trong nhân dân, tạo đồng thuận trong xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Cùng với đó, hoạt động giám sát, phản biện được chú trọng, trong đó MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh đã lựa chọn những nội dung trọng tâm để xây dựng chương trình giám sát và phản biện xã hội theo Quyết định số 217 và 218 của Trung ương. Nội dung các cuộc giám sát tập trung vào việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực đăng ký xe, xử lý vi phạm về trật tự an toàn xã hội; quy định, trình tự giải quyết các thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh... Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh hiện có 186 ban thanh tra nhân dân với hơn 1.100 thành viên; 185 ban giám sát đầu tư của cộng đồng với gần 1.000 thành viên. Các ban này đã phát huy được hiệu quả trong công tác thanh tra, giám sát các công trình, dự án, tiếp công dân; kịp thời kiến nghị với nhà đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các sai phạm.  

Bằng những nỗ lực trong hoạt động, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh đã phát huy vai trò, tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân hiểu và thực hiện đúng quyền lợi, nghĩa vụ được quy định trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Đồng thời, làm tốt vai trò đại diện cho nhân dân, đảm bảo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

*. Giải pháp trong việc xử lý các tình huống dân vận; Công tác tiếp dân; Giải quyết khiếu nại tố cáo và các vụ việc bức xúc, nổi cộm, gây mất trật tự xã hội ở cơ sở.

*. Bước 1: Phải nắm chắc tình hình, phân tích nguyên nhân và nhận dạng mâu thuẫn.

- Nắm chắc tình hình, khi điểm nóng xảy ra chúng ta phải có thông tin chính xác về các mặt sau: Thời gian, địa điểm, phạm vi và số lượng, các biểu hiện vi phạm nghiêm trọng, yêu sách của họ là gì, tích cực hay tiêu cực, liên quan đến ai và ai là người giải quyết. Ai là người cầm đầu chỉ huy kể cả công khai và giấu mặt, số lượng những người quá khích, âm mưu và thủ đoạn của họ xem ý đồ của họ muốn gì ?, kế hoạch của họ ra sao, có sự can thiệp chỉ đạo của  bọn trong và ngoài nước hay không nắm được tâm trạng của số đông người nơi xảy ra điểm nóng ủng hộ hay phản đối những người tham gia điểm nóng, họ có bị lôi kéo, mua chuộc, khống chế không, nguyện vọng của họ lúc này là gì ?

+ Tình hình hoạt động của cấp uỷ Đảng, chính quyền nơi xảy ra điểm nóng như thế nào, có duy trì được vai trò lãnh đạo hay mất vai trò lãnh đạo. Thái độ của họ đối với việc xử lý điểm nóng như thế nào.

- Phải đánh giá đúng nguyên nhân phát minh điểm nóng, xác định xem nguyên nhân khách quan hay là nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân bên trong hay nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân sâu xa hay nguyên nhân trực tiếp.

- Xác định mâu thuẫn: Sau khi phân tích nguyên nhân cần xác định rõ các loại mâu thuẫn xem đây là mâu thuẫn đối kháng hay không đối kháng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân hay giữa dân với chính quyền, mâu thuẫn địch, ta, xem xét mức độ và sự đan xen giữa các mâu thuẫn.

* Bước 2: Thiết lập sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất phát huy vai trò của các binh chủng công tác tư tưởng và hiệu lực của hệ thống chính trị để giữ vững quyền lực chính trị, lựa chọn người chỉ huy, người trực tiếp tham gia vận động tuyên truyền giáo dục, thuyết phục phải có đủ uy tín bản lĩnh trí tuệ, có phương pháp đúng, có khản năng  chịu đựng và biết hoà mình vào quần chúng. Trong trường hợp cần thiết có thể thay đổi người chỉ huy, kiên trì vận động giáo dục thuyết phục đưa công tác tư tưởng đi trước một bước, phát huy dân chủ dựa vào dân và động viên nhân dân tham gia giải quyết điểm nóng. Có sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở để có biện pháp xử lý đúng đắn.

- Phải lựa chọn phương thức, lực lượng, phương tiện cần thiết để giải quyết điểm nóng, xác định rõ phương thức giải quyết là tuyên truyền vận động giáo dục thuyết phục hay trấn át, hay kết hợp cả 2 phương thức trên. Các lực lượng tham gia có thể là cấp uỷ ban tuyên giáo, mặt trận các đoàn thể quần chúng, những người có uy tín trong cộng đồng công an, quân đội.... có thể phát huy sức mạnh tổng hợp các phương tiện truyền thông đại chúng trong giải quyết điểm nóng.

- Sử dụng các phương thức, lực lượng phương tiện xử lý điểm nóng trong trong các trường hợp cụ thể để giải tán đám đông quần chúng cần tập trung cao độ làm công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục thuyết phục một cách kiên trì, bền bỉ, không dùng biện pháp hành chính mệnh lệnh, áp đặt với quần chúng ngay từ đầu. Giải quyết yêu sách của đám đông nếu yêu sách đó là chính đáng. Nếu không giải quyết được ngay thì phải cam kết với họ sớm đưa ra giải quyết. Đưa cán bộ vào đám đông để vận động lôi kéo thuyết phục những quần chúng tích cực, đồng thời để nhận diện và răn đe những kẻ quá khích. Khuyên giải đám đông gây rối tỉnh ngộ. Trong nhiều trường hợp cần vạch rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch để quần chúng hiểu rõ. Chia cắt đám đông thành các nhóm nhỏ, điều chuyển cách ly những đối tượng cầm đầu quá khích ra khỏi quần chúng. Trong trường hợp cần có thể sử dụng biện pháp mạnh buộc phải giải tán đám đông.

+ Đối với người cầm đầu.

. Nếu  người cầm đầu là phần tử xấu thì chúng ta cần đủ chứng lý để vạch trần thủ đoạn của họ, giúp quần chúng nhận thức rõ đúng sai.

. Nếu người cầm đầu là phản động liên quan đến phản động thì phải tìm cách bắt giữ nhưng bắt lúc nào ? bắt ở đâu ? xử lý như thế nào ? thì phải tính toán rất kỹ.

- Chuẩn bị phương án xử lý tình huống xấu nhất có thể xảy ra, ngăn ngừa nguy cơ lan toả sang nơi khác.

+ Lúc đầu phải giải quyết theo phương án tốt nhất để giải quyết, nếu tình hình phức tạp thì có thể chuyển sang phương án thứ 2, thứ 3.

+ Khi tình huống xấu nhất xảy ra thì phải ứng phó kịp thời không để rơi vào tình trạng lúng túng, bị động, bất ngờ.

+ Có biện pháp kiềm chế để không để điểm nóng bùng phát lớn và lan toả sang nơi khác như là dùng lực lượng vũ trang khống chế phong toả ở gần và xung quanh điểm nóng để yểm trợ khi cần thiết và để tách biệt điểm nóng với vùng lân cận. Có thể áp dụng các giải pháp khác như: Tăng cường chính trị tư tưởng, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân ở những vùng xung quanh điểm nóng.

* Bước 3: Khắc phục hậu quả, ổn định tình hình khi điểm nóng bị dập tắt.

- Đưa hoạt động nơi xảy ra điểm nóng trở lại với nhịp điệu bình thường, từ đó:

+ Phải khắc phục hậu quả của điểm nóng như thiệt hại về vật chất, tinh thần.... làm tốt công tác tư tưởng, tuyền truyền, vận động cán bộ Đảng viên, quần chúng nhân dân, xoá bỏ hận thù khôi phục sự đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, ổn định công tác, ổn định cuộc sống.

+ Phải giáo dục ý thức đoàn kết thương yêu nhau trong nội bộ cơ quan đơn vị, trong nội bộ nhân dân, kêu gọi tình cảm cộng đồng, nêu cao truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước của nhân dân.

+ Xử lý đúng mức những người vi phạm để xảy ra điểm nóng và gây ra điểm nóng.

+ Kiện toàn, củng cố tổ chức, thanh lọc cán bộ sai lầm và lựa chọn cán bộ thay thế.

* Bước 4: Rút kinh nghiệm dự báo tình hình và áp dụng những giải pháp để điểm nóng không tái phát.

- Đánh giá rút kinh nghiệm, qua việc giải quyết điểm nóng cần đánh giá rút kinh nghiệm.

- Dự báo tình hình và áp dụng các giải pháp để điểm nóng không tái phát.

*. Một số giải pháp chủ yếu về nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Thời gian qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã đạt được những kết quả, góp phần vào việc ổn định an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng. Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; tạo cơ sở pháp lý trong giải quyết khiếu nại, tố cáo Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005. Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6-3-2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.

Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư, các ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến tích cực. Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa phương để chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo. Qua đó, đã kiến nghị các cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh nhiều cơ chế chính sách, pháp luật chưa phù hợp, khắc phục, chấn chỉnh những bất cập trong quản lý nhà nước.

Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc khiếu kiện vượt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi khiếu nại, tố cáo, có những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công minh; nhưng cũng có một số người mặc dù về việc khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết, hoặc vì cố chấp mà vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu nại, tố cáo có thái độ gay gắt, cực đoan, có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở một số địa bàn.

Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.

Nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu nại, tố cáo hiện nay thì có nhiều nhưng chủ yếu là do cơ chế, chính sách, pháp luật còn có những bất cập, chưa phù hợp thực tế; công tác quản lý nhà nước còn có những yếu kém, sai phạm, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Trong nhiều trường hợp khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng, đòi lại đất nhưng thiếu cơ chế, chính sách để giải quyết thỏa đáng. Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở một số địa phương còn buông lỏng, để xảy ra sai phạm. Quá trình thực hiện thu hồi đất của dân chưa đúng trình tự, thủ tục, thiếu công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng và trong một số trường hợp số tiền bồi thường, hỗ trợ chưa đủ để người dân tạo lập chỗ ở mới tốt hơn. Có một số dự án thu hồi đất sản xuất của dân nhưng không được sử dụng hợp lý, đất đai bỏ hoang, lãng phí, trong khi nông dân thiếu đất sản xuất, dẫn đến bức xúc, phát sinh khiếu nại. Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo, một số chính quyền địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình, thiếu quan tâm giải quyết từ cơ sở, có nhiều vụ việc giải quyết chậm, thẩm tra, xác minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính xác, áp dụng pháp luật cứng nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, dân không đồng tình, tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa tốt, còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trả lời thiếu thống nhất. Việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo và công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên có những vụ việc đơn giản vẫn phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, bọn phản động và phần tử cơ hội lợi dụng, kích động những người đi khiếu nại, tố cáo; tổ chức, lôi kéo khiếu kiện đông người, biến các vụ việc khiếu nại thuần túy trở thành vấn đề chính trị - xã hội, dẫn đến tình hình khiếu nại, tố cáo thời gian qua có những diễn biến phức tạp.

Từ thực trạng trên, nhận định tình hình khiếu nại, tố cáo trong thời gian tới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở một số địa bàn. Chủ trương hiện nay của Chính phủ là các cấp, các ngành phải nỗ lực hơn nữa trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, quan tâm giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng và kịp thời giải quyết các vụ việc mới phát sinh, không để công dân bức xúc kéo đi khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, không để kẻ xấu xen vào lợi dụng kích động gây rối. Đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cấp bách nhằm góp phần giữ vững ổn định an ninh - trật tự xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội cũng là thước đo chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi ngành. Để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhấtĐề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trước hết là nhờ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền. Các cấp ủy có nghị quyết lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp chính quyền có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết, các cơ quan nhà nước phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ khách quan, làm rõ nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo, kết luận rõ đúng, sai, đề ra phương án giải quyết phù hợp, có lý, có tình.

Thứ hai:  Các cơ quan nhà nước phải củng cố và chấn chỉnh công tác tiếp công dân, thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân, bố trí cán bộ có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất đảm nhiệm công tác tiếp dân. Những vụ việc phức tạp các đồng chí lãnh đạo phải đích thân tiếp dân, đối thoại với công dân và trực tiếp chỉ đạo giải quyết với tinh thần "giải quyết để bảo đảm yên dân chứ không giải quyết xong việc". Khi xảy ra khiếu kiện đông người thì các cơ quan nhà nước phải tăng cường sự phối hợp để tiếp dân và vận động công dân trở về địa phương, đồng thời, có biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm, không để kéo dài, tái khiếu kiện.

Thứ ba:  Các cơ quan thanh tra Nhà nước tăng cường thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ trưởng và cán bộ, công chức có trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, tập trung vào những nơi có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, đông người, phức tạp; chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo thấp; không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp trên... để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiến nghị chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý công khai, nghiêm minh những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, tăng cường hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ tư:  Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân; tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp hành pháp luật và các quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối với các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối thì phải tiến hành làm rõ, xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

Thứ năm:  Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân sách, chính sách xã hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công dân; đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hài hòa, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo.

VD:  Quá trình diễn biến và nguyên nhân diễn ra điểm nóng ở xã A.

*  Quá trình diễn biến :

Nguyện vọng của đa số nông dân muốn giảm các khoản đóng góp. Khi có chỉ thị số….. của huyện giảm một số khoản đóng góp về y tế, thú y, ngày công… thì Đảng bộ, UBND và Hội đồng nhân dân xã có bàn thực hiện nhưng chậm và không kiên quyết, còn nhân dân đòi hỏi giải quyết ngay. Từ ngày A tháng B năm C đến ngày D tháng Đ năm C, ở các bản trong xã nhân dân tự tổ chức họp (đề nghị trưởng bản triệu tập, nhưng trưởng bản từ chối), bàn đấu tranh thực hiện công văn ….. của huyện, và kéo lên UBND xã đòi giải quyết. Từ đấu tranh đòi thực hiện công văn ….. nhân dân đòi thanh tra toàn bộ kinh tế tài chính xã và đòi lại hơn ….. triệu đóng góp xây dựng trường học, nhưng xã chưa làm. 

* Nguyên nhân:

Điểm nóng A xuất hiện và diễn ra kéo dài mấy tháng với tính chất trầm trọng, có thể thấy rõ bởi do các nguyên nhân.

- Người nông dân trong xã phải đóng góp quá mức so với thu nhập bình quân chung của họ

- Cán bộ vi phạm quyền dân chủ với dân: Về thể chế chính trị nông thôn được cấu thành bởi các bộ phận Đảng, Chính quyền, các đoàn thể quần chúng và ban quản lý hợp tác xã.  

+ Về việc thu quá sức đóng góp của nhân dân lại đem chi tiêu bất hợp lý.

+ Về sự cưỡng chế của chính quyền, mất dân chủ.

Những bất bình trên tích đọng qua nhiều năm tháng bùng lên thành phong trào đấu tranh của quần chúng;  

Nguyên nhân nổ ra điểm nóng A còn do một số người vốn bất mãn, hiềm thù với cán bộ, chính quyền cơ sở, nhân cơ hội đứng ra tổ chức, kích động, xúi dục nhân dân để trả thù cá nhân.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, điểm nóng A về bản chất là mâu thuẫn không đối kháng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân đã phát triển đến đỉnh cao. Về cơ bản vẫn phong trào đấu tranh đòi dân chủ, công bằng, công khai của nông dân. Phong trào ấy không phải với mục đích chống Đảng, chống chế độ, lật đổ chính quyền mà muốn chính quyền trở lại đúng với bản chất của nó.

* Giải pháp:

Thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, cách mạng Việt Nam vừa đứng trước thời cơ, vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn không thể xem lường. Nắm bắt cơ hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức với tinh thần cách mạng tiến công, đưa cách mạng tiến lên mạnh mẽ, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chúng ta.

Để đảm bảo ổn định trật tự xã hội và xử lý tốt các tình huống chính trị cần tập trung vào một số giải pháp như sau:

- Thứ nhất: phải chủ động xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ thống nhất từ trên xuống dưới (4 cấp), trong đó cần đặc biệt quan tâm việc xác định ch rõ các giải pháp căn bản chiến lược làm cơ sở cho việc định ra một cách linh hoạt các giải pháp tình thế.

- Thứ hai: để cụ thể trong nhận thức và hành động, các giải pháp cần được phân loại để áp dụng cho phù hợp với mỗi tình hình cụ thể. Trong sự phân loại ấy, cần nên có sự phân biệt (tương đối) đâu là giải pháp đem lại lợi ích trực tiếp cho dân và đâu là giải pháp đem lại lợi ích của hệ thống chính trị từ đó, về nguyên tắc, các giải pháp đem lại lợi ích cho dân phải được xem là cao nhất và chi phối các giải pháp khác. Hai loại giải pháp này, nếu xuất phát từ chủ thể giải quyết điểm nóng là Đảng và Nhà nước thì có thể gọi giải pháp đem lại lợi ích trực tiếp cho dân và giải pháp hướng ngoại, còn giải pháp kia là giải pháp hướng nội. Vì thế cần hết sức tranh việc đưa ra các giải pháp có thể đẩy dần vào phía đối lập với Đảng và chính quyền ở các cấp. Bởi vì, điểm nóng thực chất vẫn là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

- Thứ ba: cần có các giải pháp cụ thể tương ứng cho mỗi một quá trình diễn biến của điểm nóng. Điểm nóng chỉ phát sinh khi các mâu thuẫn đã vận động trong suốt một quá trình: mâu thuẫn từ lợi ích kinh tế dẫn đến mâu thuẫn xã hội và rồi mâu thuẫn tiếp tục lan đến, tác động vào lĩnh vực chính trị. Vì thế cần có giải pháp cụ thể, đón đầu ở mỗi một quá trình đó.

 

Từ thực tế cho thấy có thể khẳng định: Điểm nóng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, ngăn chặn và giải quyết điểm nóng ở mức độ nào đó là phụ thuộc vào quyết định, vào vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý kinh tế – xã hội của chính quyền, vai trò đại diện quyền làm chủ của nhân dân, của các tổ chức, cá nhân người lãnh đạo, quản lý. ở đâu cán bộ có trí tuệ, bản lĩnh, trung thực và trong sạch, gần gũi, gắn bó, biết chăm lo tới đời sống của nhân dân thì ở đó không xảy ra điểm nóng và ngược lại, ở đâu có tham nhũng, có vi phạm lợi ích kinh tế – chính trị, quyền làm chủ của nhân dân thì ở đó tất yếu sinh ra điểm nóng.

Như vậy rõ ràng là cán bộ ở các cấp có vai trò quan trọng trong việc dập tắt điểm nóng cũng như ngăn ngừa điểm nóng xảy ra. Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để đặt chính sách cho đúng.

Do đó, xây dựng nền dân chủ XHCN là cả một quá trình biến đổi cách mạng to lớn đòi hỏi phải phấn đấu kiên trì, bền bỉ. Sự phát triển tốt của kinh tế, văn hóa, chính trị luôn luôn tạo điều kiện phát triển dân chủ tốt hơn, cao hơn. Ngược lại, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, giữ vững ổn định chính trị.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa mà khâu quan trọng là dân chủ ở cơ sở là một vấn đề có tầm vóc chiến lược, liên quan đến sự sống còn của đất nước và chế độ mới.

*. Bài học kinh nghiêm:      

Xuất phát từ thực tiễn điểm nóng ở xã A chúng ta rút ra được một số kinh nghiêm:

- Cần hoàn thiện, bổ sung và xây dựng  mới những chính sách, chủ trương trên tầm vĩ mô về phát triển kinh tế nông nghiệp, xã hội nông thôn và giai cấp nông dân, phù hợp kịp thời với thời kỳ phát triển hiện nay.

Đảng ta lãnh đạo xã hội, trong đó có giai cấp nông dân, là nhằm đem đến cho họ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Giai cấp nông dân Việt Nam bên cạnh những ưu điểm còn có nhiều hạn chế so với các giai cấp lao động khác. Vì thế các chính sách chủ trương, pháp luật trực tiếp tác động vào nông nghiệp , nông thôn và  nông dân là tối quan trọng. Tuy nhiên, từ sự kiện điểm nóng xã A có thể khẳng định hiện nay chính sách của ta còn có nhiều nội dung phải được nhanh chóng bổ sung và thay đổi. Tuy nhiên bên cạnh chính sách về phát triển kinh tế cần có chính sách phát triển họ với tính cách là một giai cấp, xã hội được ưu đãi. Chỉ có như thế, người nông dân mới được phát triển toàn diện, công bằng và mới bớt đi tâm lý mặc cảm, người nông dân nông thôn  bị bỏ rơi. Đặc biệt phải coi trọng quy trình thể chế hoá chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có tính khả thi để không xảy ra tình trạng mâu thuẫn, hiểu sai chủ trương, chính sách.

 - Ra sức kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị các cấp ở địa phương. 

Trong đó, cấp cơ sở và cấp huyện cần được quan tâm hàng đầu. Kiện toàn hệ thống chính trị toàn diện từ thể chế, bộ máy cho đến con người chính trị trong đó yếu tố con người được xem là nhân tố quyết định. Việc kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị các cấp địa phương nơi có điểm nóng diễn ra có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại thực của Đảng và nhà nước ta. Đồng thời nó cũng là nhân tố lấy lại niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nước làm cho kẻ địch không có cơ hội để giành lấy dân, lấn lướt một cách dễ dàng.

-  Nhanh chóng thống nhất về nhận thức và giải pháp ở tất cả các cấp, kiện toàn và khôn khéo trong việc đấu tranh chống bọn quá khích, cơ hội và bọn tội phạm xã hội, xem đó là một trong những nội dung đấu tranh trong thời kỳ mới.

Kinh nghiệm cho thấy khi xảy ra điểm nóng mà các cấp không có và chậm thống nhất về nhận thức bản chất vấn đề, các giải pháp thì nhất định sẽ làm cho “nóng” trở thành “sôi” đơn giản trở thành phức tạp. Nhiều vụ việc rất đáng tiếc lại thường xảy ra từ tình hình này. Không chỉ như thế, tai hại tiếp nữa là làm cho giữa các cấp nảy sinh tình trạng  tranh công đổ lỗi dẫn đến mâu thuẫn có khi gay gắt.

Quá trình diễn biến điểm nóng thường xuất hiện cơ hội, quá khích “đổ dầu vào lửa”. Với số lượng này chỉ có khôn khéo và cương quyết trừng phạt, mọi biểu hiện do dự hữu khuynh ở đây là điều nguy hiểm cho ta. Song cái khó ở đây là khi đám đông quần chúng đang nóng, họ ít có khả năng phân biệt chính - tà và cấp cơ sở đang lúng túng, thậm chí tê liệt nên rất khó có thể ra tay kịp thời. Vì thế việc này phụ thuộc vào khả năng nắm bắt đối tượng từ trước đó là: Phụ thuộc vào các cấp trên. Nó đòi hỏi một cách quyết định vào trình độ văn hoá chính trị của chủ thể giải quyết ra sao.

Ngoài ra, ta thấy điểm nóng diễn ra và kéo dài, kẻ thù của giai cấp và của chế độ sẽ không bỏ lỡ cơ hội, tác động vào nhằm làm cho tình hình xấu thêm dẫn đến khủng hoảng chính trị để cuối cùng lượng sức dân lật đổ sự lãnh đạo của Đảng - Cho nên chúng ta phải hết sức cảnh giác trước sự phá hoại của kẻ địch bằng diễn biến hoà bình khi điểm nóng xảy ra.

*. Giải pháp chủ yếu trong việc nâng cao chất lượng công tác dân vận và thực hiện hiệu quả thiết thực quy chế dân chủ ở địa phương  cơ sở cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan nhà nước các cấp trong tỉnh đã có nhiều giải pháp để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức, làm chuyển biến về tinh thần trách nhiệm đối với công tác này.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi phải tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Và đây cũng là một trong những biện pháp nhằm thực hiện chủ đề của Tỉnh ủy "Tăng cường xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, biến lời nói thành hành động".

Chính quyền các cấp, các cơ quan nhà nước đã có nhiều đổi mới trong việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng thời, chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, mang lại hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình cao, như chính sách hỗ trợ đối với người nghèo; hỗ trợ nông dân, ngư dân vay vốn phát triển sản xuất; hỗ trợ xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ doanh nghiệp; chuyển đổi các trường công lập tự chủ tài chính sang loại hình trường công lập; có cơ chế thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi, xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đại học là con em địa phương chưa có việc làm; chính sách đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc; phụ cấp cán bộ bán chuyên trách ở cơ sở...

Việc thực hiện Quy chế dân chủ từng bước đi vào nền nếp; qua đó, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đặc biệt, trong thực hiện phong trào “ Xây dựng nông thôn mới ” các cấp chính quyền đã tích cực vận động nhân dân tự nguyện hiến đất, hiến tài sản, đóng góp tiền, ngày công lao động với giá trị hàng trăm triệu đồng để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến hết năm 2017, toàn xã đã có 3/6 bản đạt chuẩn nông thôn mới;

( Đ/C: Lương Thị Hạnh – PCT UBND huyện phát biểu tại lễ đón nhận danh hiệu xã Tam Lư đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới 2016 )

*. Các giải pháp chủ yếu cần thực hiện:

Một là:  Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác dân vận được thể hiện ở việc kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với các cuộc vận động, chỉnh đốn, xây dựng Đảng. Đồng thời, phát huy sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, khẳng định sự tin tưởng của nhân dân đối với Đảng. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nắm vững, kiên định với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong bối cảnh hiện nay tạo động lực để các tầng lớp nhân dân đóng góp tích cực vào sự phát triển KT-XH – ANQP  của xã. Xác định rõ trách nhiệm công tác dân vận là của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên, các đoàn thể nhân dân. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, trong họ tộc, tạo điều kiện để họ tham gia tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan tỏa của công tác dân vận trong tình hình mới.

Hai là:  Quan tâm đẩy mạnh công tác dân vận trong cơ quan UBND  cấp xã, các trường học; chú trọng triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách nề nếp, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao trình độ văn hóa giao tiếp, ứng xử cho cán bộ, công chức, giáo viên, nhân viên trong mối quan hệ với nhân dân nhằm tăng cường sự hài lòng, ghi nhận của nhân dân. Công khai các quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức để nhân dân biết và giám sát. Chủ động nắm tình hình, tăng cường tiếp xúc đối thoại với nhân dân, tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân và cộng đồng như: chính sách về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…giải quyết kịp thời chế độ chính sách an sinh xã hội trên địa bàn xã.  Xây dựng hình ảnh người cán bộ tận tụy với công việc, trách nhiệm, thân thiện và quý trọng nhân dân. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành và vận động nhân dân của chính quyền,  xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, thực sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ba là:  Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, hướng về thôn bản, đa dạng hình thức tập hợp đoàn viên, hội viên và nhân dân, khắc phục hành chính hóa trong hoạt động; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên viên, hội viên và nhân dân. Tăng cường lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, "dân vận khéo", tăng cường phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận...nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát KT - XH - ANQP trên địa bàn. 

Bốn là: Thường xuyên quan tâm công tác xây dựng, kiện toàn củng cố Khối dân vận, tổ dân vận, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận và các đoàn thể, nâng cao chất lượng tham mưu về công tác dân vận ở các cấp ủy. Chú trọng đào tạo cán bộ tham mưu sâu về các lĩnh vực công tác dân vận, nhất là công tác tôn giáo, vận động trí thức, doanh nhân trong tình hình mới; quan tâm cán bộ không chuyên trách, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận nhằm cường kỹ năng công tác dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân, quan tâm cán bộ làm công tác mặt trận, các đoàn thể cấp xã và thôn bản.

Năm là: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, trú trọng công tác vận động nhân dân thực hiện 5 quy chế dân chủ trong các loại hình mới. Thường xuyên nắm bắt tình hình đời sống tâm tư nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn những hạn chế tồn tại. Kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng các tập thể thể, cá nhân điển hình trong công tác vận động quần chúng trong tình hình mới;

Kết quả hình ảnh cho ẢNH ĐẸP VỀ XÃ TAM LƯ

( Đ/C: Nguyễn Văn Đồng – CT: UBND huyện trao giấy khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác vận động XDNTM Bản Hậu, xã Tam Lư. )

Đồng thời kiểm điểm, phê bình những tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, có hành vi vi phạm trong thực hiện nhiệm vụ.

Sáu là:  Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương  cần đổi mới công tác học tập, quán triệt Nghị quyết theo 4 công đoạn:

+ Thứ nhất: Xây dựng chương trình hành động triển khai quán triệt, thực hiện nghị quyết, chương trình hành động với nội dung ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, nhấn mạnh những vấn đề thiết thực gắn liền với quyền và nghĩa vụ của người dân:

+ Thứ hai: Tổ chức thảo luận từ chi bộ để cán bộ, đảng viên nói lên ý kiến của mình cũng như tìm hiểu sâu hơn tinh thần của nghị quyết;

+ Thứ ba: Tổ chức giải đáp để tạo sự nhận thức sâu sắc hơn nội dung của Nghị quyết:

+ Thứ tư: Tổ chức viết bài thu hoạch sau khi cán bộ đảng viên đã được học tập, quán triệt Nghị quyết. Nội dung và cách thức phát động các phong trào thi đua yêu nước cũng cần được quan tâm nghiên cứu đổi mới theo hướng: Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức vận động sát với thực tế của địa phương, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, thời điểm; sáng tạo trong lồng ghép, kết hợp các phong trào thi đua, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong nhân dân./.

Top of Form

 

 

  

Công tác dân vận và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đăng lúc: 13/11/2017 09:33:43 (GMT+7)

công tác dân vận

 Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cấp ủy các cấp,công tác dân vận nói chung, công tác dân vận của chính quyền của tỉnh nói riêng đã có chuyển biến rõ nét. Chính quyền các cấp phát huy dân chủ trong xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách, chủ động nắm tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng, giải quyết kịp thời những kiến nghị, những vấn đề bức xúc của nhân dân; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai các chủ trương, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân thi đua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh.  

Bi thu Thanh Hoa nhan khuyet diem voi dan Sam Son hinh anh 1

(  Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến trong buổi đối thoại với người dân Sầm Sơn sáng 7/3/2016 )

Tuy nhiên, vẫn còn một số nơi chính quyền và cán bộ công chức chưa thường xuyên quan tâm đến công tác dân vận, còn biểu hiện quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh, đôi khi thực hiện chưa hết chức trách, nhiệm vụ được giao. Một số cán bộ công chức, viên chức chưa nắm được nội dung và chưa hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, còn diễn ra ở một số nơi, gây dư luận không tốt trong nhân dân. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính còn chậm, cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, “một cửa điện tử hiện đại” chưa phát huy hết tính tích cực. Việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại tố cáo của công dân có một sốvụ việc phức tạp còn để kéo dài. Việc làm đó đã ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và chính quyền cơ sở.

            Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 290-QĐ/TW  ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị,  trong đó có quy định rất cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ tỉnh đến cơ sở về thực hiện công tác dân vận. Để thực hiện có hiệu quả Quyết định 290 của Bộ chính trị cần quan tâm một số nội dung sau:

          Thứ nhất:  Luôn xác định rõ chất lượng công tác dân vận của chính quyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ quan (năng lực của chính quyền) và yếu tố khách quan (sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; hướng dẫn giúp đỡ của cấp trên; sự ủng hộ tham gia của nhân dân; các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội...). Trong các yếu tố tạo nên chất lượng công tác dân vận của chính quyền, yếu tố chủ quan luôn đóng vai trò quyết định trực tiếp; các yếu tố khách quan có vai trò quan trọng và không thể thiếu.

          Thứ hai: Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang... về vai trò, vị trí của công tác dân vận; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận trong thời kì mới; nhiệm vụ dân vận do cấp ủy đảng đặt ra. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận, mỗi cán bộ công chức, theo chức trách của mình xác định nhiệm vụ trọng tâm thực hiện công tác dân vận, đồng thời vận dụng phương châm, phương pháp dân vận phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế ở địa phương, cơ sở.

          Thứ ba:  Thường xuyên chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thực thi có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính. Đổi mới phương thức, quản lí, điều hành, xây dựng phong cách làm việc "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân". Đảm bảo để chính quyền có đủ năng lực, hiệu quả, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu và đòi hỏi của người dân.

          Thứ tư: Triển khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, các Nghị định của Chính phủ quy định thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở; Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh. Có quy định cụ thể để các thành viên trong hệ thống chính trị tỉnh, huyện xã  đôn đốc theo dõi và giám sát lẫn nhau trong việc thực hiện Quy chế.

          Thứ năm:  Quan tâm giải quyết kịp thời những nhu cầu và đòi hỏi thiết yếu của nhân dân. Thực hiện tốt quy định về chế độ tiếp công dân, giải quyết kịp thời những thắc mắc, kiến nghị của công dân ngay khi vụ việc mới xuất hiện, không để vụ việc kéo dài dẫn tới đơn thư vượt cấp, hoặc hình thành điểm nóng. Xây dựng và ban hành cơ chế cụ thể để khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người dân đều có thể thực hiện quyền làm chủ theo quy định của pháp luật.

          - Chính quyền cần chủ động phối hợp và nâng cao chất lượng hoạt động phối hợp với mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật; trong triển khai thực hiện các chương trình, dự án; vận động, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường, giữ gìn ạn ninh trật tự....ở các địa bàn dân cư./.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, đạt được những kết quả quan trọng.

d2.jpg


          Nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Vì vậy, được nhân dân đồng tình hưởng ứng và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác vận động nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội thường xuyên được kiện toàn, củng cố và phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tích cực đổi mới phương thức hoạt động và các hình thức vận động nhân dân,  xây dựng và triển khai kế hoạch, hướng dẫn đăng ký mô hình, điển hình thực hiện phong trào thi đua "Dân vận khéo"tới các ban, ngành, đoàn thể, các chi bộ, tổ dân vận trực thuộc nhằm vận động nhân dân tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, gắn với việc: "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư"; Chỉ đạo các ngành, đoàn thể và các chi bộ tổ chức triển khai tuyên truyền rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, thường xuyên tuyên truyền trên hệ thống đài truyền thanh về các gương điển hình, mô hình "Dân vận khéo" của xã; chỉ đạo MTTQ, các đoàn thể chính trị, các tổ chức hội quần chúng phát động phong trào thi đua "Dân vận khéo" trong tổ chức của mình;  Khối dân vận, UBND, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên gần dân, nắm bắt tình hình dư luận nhân dân để tham mưu với Đảng uỷ kịp thời chỉ đạo giải quyết những vấn đề bức xúc dân sinh, không để phát sinh thành điểm nóng; Nâng cao hiệu quả quản lý trên địa bàn theo hướng văn minh. Đảng bộ các cấp chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt nghị quyết của Đảng uỷ cấp dưới, tổ chức tốt hội nghị nhân dân bàn việc thực hiện nếp sống văn minh đô thị "Giữ gìn nhà-hè-đường x㠖 xanh - sạch - không rác"; đảm bảo an sinh xã hội. Chỉ đạo tổ chức ngày hội đại đoàn kết toàn dân vào dịp kỷ niệm ngày thành lập MTTQ Việt Nam hàng năm.

Tuy nhiên, qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác dân vận vẫn còn một số tồn tại,  hạn chế như:  Việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát về công tác dân vận còn hạn chế, có lúc thiếu kịp thời; việc nắm bắt tình hình tư tưởng, nguyện vọng, dư luận của nhân dân có lúc chưa đầy đủ. Sự phối hợp trong công tác vận động quần chúng giữa các ban, ngành, đoàn thể trên một số lĩnh vực chưa đồng bộ, công tác tham mưu có lúc thiếu kịp thời. Công tác dân vận ở một số cấp ủy chi bộ chưa được quan tâm đúng mức. Một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn biểu hiện sự quan liêu và thiếu tôn trọng nhân dân trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, việc tiếp nhận hẹn trả kết quả còn chậm so với thời gian quy định, nhất là trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử đất. Quán triệt tinh thần các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, tỉnh và huyện về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, với những quan điểm mới. Đảng ủy các xã phải được cụ thể hóa bằng Nghị quyết, Chương trình, kế hoạch để thực hiện có hiệu quả trong công tác dân vận của xã, tăng cường chỉ đạo khối dân vận Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các cấp ủy chi bộ triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ.

Yêu nước thương dân, đấu tranh không mệt mỏi vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, coi sự hy sinh ấy là hạnh phúc lớn nhất của đời người, sống vì dân, gần gũi với dân, thấu hiểu tâm trạng, nguyện vọng của  dân để làm tất cả những gì có thể đem lại lợi ích cho dân…Đó là nét nổi bật nhất, quy tụ tất cả những gì làm nên sự vĩ đại của trí tuệ, tâm hồn lớn và nhân cách lớn Hồ Chí Minh.

( Phong cách dân vận gần gũi và thiết thực của Bác )

Thực tế nghiên cứu chữ Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của nó một cách toàn diện, cách mạng và khoa học. Tùy vào những hoàn cảnh khác nhau, Người đã dùng những khái niệm dân, nhân dân, quần chúng, đồng bào một cách phù hợp và rất gần gũi, quen thuộc với cách nói hàng ngày của người Việt Nam. Dân, theo Hồ Chí Minh, là mọi người dân nước Việt Nam, là mọi “con dân nước Việt”, là “con Rồng, cháu Tiên”, là “con Lạc, cháu Hồng”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”, là bất kỳ “đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc”.

Vận dụng sáng tạo quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết tinh truyền thống dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Dân là lực lượng sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, không ai thông minh, trí tuệ, sáng tạo bằng dân chúng; không ai tốt bằng dân chúng; không ai hăng hái như dân chúng, không ai dũng cảm bằng dân chúng; không ai nhìn thấu bằng dân chúng… Từ đó, Người khẳng định: Dân là gốc của nước, “gốc có vững, cây mới bền”, dân có giàu nước mới mạnh; dân là lực lượng vô tận để dựng nước và giữ nước; dân là chủ, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, mọi “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”… Nói chung, có dân là có tất cả, không có gì quý bằng nhân dân, không có lực lượng nào mạnh hơn lực lượng đoàn kết của nhân dân, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, Khó vạn lần dân liệu cũng xong”

Nước ta là nước dân chủ. Điều này được khẳng định chỉ với 73 chữ, được sắp xếp trong 7 câu, ở mỗi câu đều có chữ dân, trong đó có 1 lần "vì dân", 2 lần "do dân", 3 lần "của dân" và câu thứ 7 khẳng định: "Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân ". Vậy là, ngay từ những ngày đầu có chính quyền, Bác đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Không dừng lại ở đó, Người còn đề cập đến Đảng, đoàn thể hay nói cách khác là hệ thống chính trị của ta đều có bản chất chung là của dân, do dân và vì dân. Quan điểm của Bác xác định rõ dân chủ là cái chìa khóa vạn năng mở mọi cánh cửa và trở thành nền tảng của công tác dân vận.  Người đã đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho". Dân vận thuộc trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Chúng ta cần quán triệt phương châm "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm".  

Đặc biệt nhất là câu kết bài đặc sắc, súc tích, tinh túy và trở thành câu nói kinh điển dành cho những ai làm công tác dân vận: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Chỉ trong 29 chữ, câu kết bài đã khái quát đầy đủ ý nghĩa tầm quan trọng của công tác dân vận. Nếu bài Dân vận là một hạt ngọc trong chuỗi ngọc Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì câu kết bài chính là kết tinh làm nên sự tỏa sáng của hạt ngọc ấy.

Những chỉ dẫn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra cho chúng ta gần bảy mươi năm qua đến nay vẫn mang tính thời sự mới mẻ và trở thành bài học của mọi bài học về công tác dân vận. Chúng ta luôn khắc ghi lời nhắc nhở của Bác: Đối với dân phải nâng cao trình độ để xứng đáng là người làm chủ, trách nhiệm của người làm chủ bởi vì “Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”, “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; điều quan trọng hơn cả là trách nhiệm của Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tập hợp, giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo dân, phát huy được sức mạnh vô tận của dân góp phần gặt hái thành công trong sự nghiệp cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng hiện nay, điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế… có nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tình hình tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng ta xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, củng cố tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thực tế đã chứng minh, từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận như: Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc khóa XII; Nghị quyết số 25; kết luận 114 của ban bí thư; Chỉ thị số 16 của thủ tướng chính phủ … đã xác định: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Công tác vận động nhân dân phải năng động, sáng tạo về nội dung, đa dạng về phương thức hoạt động và tổ chức. Trách nhiệm dân vận là của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội, không chỉ là trách nhiệm riêng của đoàn thể.

Nghị quyết số 25-NQ/TW về “tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương ra đời càng khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận. Nghị quyết chỉ rõ: “Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe”.

Đảng ta chú trọng vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó chú trọng công tác dân vận. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII yêu cầu: “Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tôn trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân”. 

Nói tóm lại, dù bất cứ giai đoạn nào, gắn với quá trình cách mạng của Việt Nam công tác dân vận luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Để góp phần nâng cao nhận thức lý luận về công tác dân vận, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói chung và những quan điểm của Người trong tác phẩm “Dân vận” nói riêng có ý nghĩa to lớn cả về tầm lý luận và thực tiễn. Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh, tác phẩm Dân vận của Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt, ngày càng ăn sâu, bén rễ vào cuộc sống và lấy đó làm kim chỉ nam cho công tác dân vận:“Dân vận kém thì việc gì cũng kém; dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”./

  Cả trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Một là, công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng không có lợi ích nào khác “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”; Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Trước lúc đi xa Người còn không quên căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.Hai là, thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.Với quy trình bốn điểm về dân vận và công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc, được Đảng ta tổng kết thành phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã nói lên vai trò của việc thực hành dân chủ trong công tác dân vận. Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.Ba là, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết là thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bởi vậy, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận’, “đồng hưởng” của toàn dân, từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết, dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Bốn là, dân vận và công tác dân vận là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất. Là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác dân vận. Dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường.  Là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân, song công tác dân vận phải được tiến hành thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc. Tuỳ theo các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976)… nhưng thực chất chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động,  qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo, Nhà nước thực hiện sự quản lý, nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hành công tác dân vận.Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới,  phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của tổ chức và mỗi người dân, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; nhất là các quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo”. Cần thiết phải nhắc lại năm chủ trương và giải pháp lớn được Đảng ta đề cập trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” để quán triệt: xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân tộc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức của các cấp, các ngành phải có chuyển biến nhận thức sâu sắc về vai trò, mục đích, qui trình, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong giai đoạn mới làm cơ sở cho công tác dân vận.Thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cơ sở, sáng tạo và thực hiện có hiệu quả những hình thức, phương pháp dân vận phù hợp với mỗi địa phương và từng cơ sở. Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Phát huy hơn nữa việc thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, phương pháp dân vận thích hợp là yêu cầu của công tác dân vận trong thời kỳ mới; đồng thời phải gắn công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh tức là dân vận phải khéo: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các cấp, các ngành. Công tác dân vận là công việc của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, song tổ chức trực tiếp làm công tác dân vận đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, mà không vận được cũng mặc.  Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Đã đến lúc cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận từ trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần và pháp lý cho các tổ chức làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vừa “có tâm” vừa đủ “tầm”. Cán bộ làm công tác dân vận phải có tác phong: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Yêu cầu óc nghĩ đòi hỏi người làm công tác dân vận phải có trình độ, có năng lực làm công tác dân vận. Yêu cầu “mắt trông, tai nghe, chân đi” đòi hỏi người cán bộ phải sát cơ sở sát thực tế, đến với dân, phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Cán bộ vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, là công bộc của dân”. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.Hồ Chí Minh đã từng nói: Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua. Thông qua phong trào thi đua yêu nước, nhiều hình thức, phương pháp dân vận được áp dụng có hiệu quả vào thực tế; nhiều hình thức, phương pháp mới nảy sinh, nhiều kinh nghiệm mới được tổng kết.Trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng, Đảng ta luôn phát động phong trào thi đua yêu nước. Mặc dù với những hình thức và nội dung có khác nhau, song mục đích chung vẫn là khơi dậy và phát huy tất cả các lực lượng của mỗi người và của mọi người tạo thành lực lượng toàn dân, vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình – xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cần phải tồ chức và thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, để nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

          Nhìn lại chặng đường thực hiện đường lối đổi mới, cả về thành tựu và hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta rút ra 5 bài học quan trọng, trong đó có bài học “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đây là bài học sâu sắc, là sự kế thừa ý thức “dân là gốc” của ông cha ta qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

Đặc biệt, từ ngày có Đảng, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của nhân dân, quan tâm sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc”. Người còn khẳng định “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh”. Tư tưởng đó được Đảng ta nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo từ các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đến lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thì một trong những nhiệm vụ quan trọng về xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay là “tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Theo đó, nghị quyết đưa ra mục tiêu rất rõ của công tác dân vận: “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội XII xác định giải pháp đầu tiên mà cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện là tổ chức tốt việc học tập, quán triệt nội dung công tác dân vận của Đảng. Tổ chức học tập, quán triệt tốt nghị quyết của Đảng không chỉ góp phần nâng cao nhận thức, mà còn là cơ sở để xây dựng và ban hành chương trình hành động thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận.

Nội dung cốt lõi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận là quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, về tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Trên cơ sở các nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tình hình thực tế của từng đảng bộ, để các cấp, các ngành, các đơn vị xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết cho địa phương, tổ chức mình một cách phù hợp, hiệu quả. Chương trình hành động phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp khả thi nhất để tổ chức đưa nghị quyết vào cuộc sống, trong đó quan tâm các nguồn lực (bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực) để có cơ sở, điều kiện thực hiện.

( Công tác tập hợp nhân dân của cấp ủy cơ sở tại xã Sơn Thủy )

Cùng với đó, từng cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, xây dựng hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả. Trên cơ sở đó, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, để mỗi đảng viên đều nêu gương cho quần chúng noi theo. Cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng chính là thông qua việc ban hành các quy chế, quy định, quy trình phù hợp. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Thực hiện công tác dân vận theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng chính là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Theo đó, để nắm được những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân thì từng cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, các đại biểu dân cử phải thường xuyên sâu sát cơ sở, sâu sát nhân dân, lắng nghe ý kiến góp ý, phản ảnh của các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, thanh niên, sinh viên… Trên cơ sở trực tiếp gặp nhân dân, qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các buổi tiếp dân mà tập hợp những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân để phản ảnh cho cấp ủy, các cơ quan chức năng của nhà nước giải quyết kịp thời. Các cấp ủy đảng, các cơ quan quản lý nhà nước cần lập đường dây nóng, hộp thư điện tử để người dân phản ảnh, kiến nghị nhanh nhất, đồng thời, tạo điều kiện cho các cơ quan thông tấn báo chí hoạt động thuận lợi phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri, của cơ sở. Cấp ủy, chính quyền phải tổ chức đối thoại trực tiếp với dân, nhất là những nơi còn tồn tại các vấn đề bức xúc có thể trở thành “điểm nóng”. Chỉ đạo tốt công tác tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tùy tình hình và mức độ khác nhau ở từng địa phương, nhưng những vấn đề mà đông đảo nhân dân quan tâm, bức xúc lâu nay như việc làm, đền bù, giải phóng mặt bằng đất đai, tham nhũng, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, ma túy… cần được cấp ủy, cơ quan nhà nước tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả.

Lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.  

( Cần, kiệm, liêm, chính là phong cách dân vận “ Khéo” nhất. )

Trước hết, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhất là nội dung “nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực tiễn chứng minh, nghị quyết của Đảng chỉ có thể đi vào cuộc sống khi được nhà nước thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, thành kế hoạch, thành các chương trình, đề án và có nguồn lực cụ thể để các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện. Thời gian qua, mặc dù Quốc hội, Chính phủ đã rất tích cực xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, nhưng thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề cần được tập trung giải quyết. Bởi vậy, để phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các cơ quan chức năng cần phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chính sách, luật pháp hoặc bổ sung, sửa đổi những vấn đề bất hợp lý trong các văn bản pháp luật đã ban hành.

Tiếp tục lãnh đạo, tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ-pháp quyền, quy định rõ trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức, đẩy nhanh việc áp dụng Chính phủ điện tử...

Cùng với những vấn đề nêu trên, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận. Nhận thức đúng vị trí, vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận để có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công tác dân vận...

Thực hiện hiệu quả chủ trương, giải pháp về công tác dân vận theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng không chỉ góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, mà còn là giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

*. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở: Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.

          Những năm qua, Uỷ ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trên địa bàn tỉnh đã tích cực, chủ động tham gia vào việc chỉ đạo, hướng dẫn, phối hợp xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ  (QCDC) ở cơ sở. Từ đó, góp phần làm chuyển biến quan trọng trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát huy dân chủ xây dựng chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở được thể hiện rất rõ nét trong công tác tuyên truyền về QCDC và triển khai thực hiện ở xã, phường, trong các cơ quan nhà nước. Việc tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, người sử dụng lao động, người lao động được chú trọng. Các đơn vị cũng tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với kiểm tra về công tác chuyên môn. Đồng thời, thường xuyên tổ chức đối thoại, lắng nghe ý kiến của đoàn viên, hội viên và nhân dân, đặc biệt là những vấn đề nhân dân quan tâm, như: Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, chính sách đất đai, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp...

MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội đã kịp thời nắm bắt, phản ánh các kiến nghị, chủ động tham mưu, đề xuất giải quyết các vụ việc kiến nghị, khiếu nại kéo dài, đông người, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên.   đã chủ động hướng dẫn các cấp công đoàn phối hợp với chuyên môn đồng cấp xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; tổ chức hội nghị CBCCVC và người lao động. Việc ký kết thoả ước lao động tập thể được các cấp công đoàn giám sát theo đúng trình tự quy định của pháp luật; đa số thoả ước lao động tập thể có quy định có lợi cho người lao động.  Kịp thời giải quyết những vướng mắc, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định. Thông qua hội nghị, quyền dân chủ của người lao động được phát huy; nhiều ý kiến, kiến nghị đã được quan tâm ghi nhận và trả lời công khai.  

Trong thực hiện QCDC cơ sở ở xã, phường, thị trấn, MTTQ các cấp trong tỉnh đã thực hiện rất tốt công tác tổ chức các cuộc bầu cử, tiếp xúc cử tri... Điều này thấy rất rõ trong cuộc bầu cử ĐBQH khoá XIV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 vừa qua. MTTQ các cấp đã hoàn thành tốt công tác hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; tổ chức đúng quy trình, luật định, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn giới thiệu người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND ba cấp của tỉnh.  MTTQ các cấp đã phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng các tầng lớp nhân dân, hướng dẫn và phối hợp tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, cử tri và nhân dân tích cực tham gia bầu cử.  Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội phường đã tích cực thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, kiểm tra công tác chuẩn bị cơ sở vật chất... Chúng tôi sẽ chuẩn bị tốt nhất để phục vụ nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình”.

MTTQ các cấp cũng phối hợp tốt với chính quyền cùng cấp xây dựng kế hoạch, lịch cụ thể để tổ chức các hội nghị tiếp xúc cử tri của ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp. Qua đó nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân đã được kịp thời giải quyết, góp phần giảm các vụ khiếu nại, tố cáo trong nhân dân, tạo đồng thuận trong xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Cùng với đó, hoạt động giám sát, phản biện được chú trọng, trong đó MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh đã lựa chọn những nội dung trọng tâm để xây dựng chương trình giám sát và phản biện xã hội theo Quyết định số 217 và 218 của Trung ương. Nội dung các cuộc giám sát tập trung vào việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực đăng ký xe, xử lý vi phạm về trật tự an toàn xã hội; quy định, trình tự giải quyết các thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh... Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh hiện có 186 ban thanh tra nhân dân với hơn 1.100 thành viên; 185 ban giám sát đầu tư của cộng đồng với gần 1.000 thành viên. Các ban này đã phát huy được hiệu quả trong công tác thanh tra, giám sát các công trình, dự án, tiếp công dân; kịp thời kiến nghị với nhà đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các sai phạm.  

Bằng những nỗ lực trong hoạt động, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh đã phát huy vai trò, tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân hiểu và thực hiện đúng quyền lợi, nghĩa vụ được quy định trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Đồng thời, làm tốt vai trò đại diện cho nhân dân, đảm bảo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

*. Giải pháp trong việc xử lý các tình huống dân vận; Công tác tiếp dân; Giải quyết khiếu nại tố cáo và các vụ việc bức xúc, nổi cộm, gây mất trật tự xã hội ở cơ sở.

*. Bước 1: Phải nắm chắc tình hình, phân tích nguyên nhân và nhận dạng mâu thuẫn.

- Nắm chắc tình hình, khi điểm nóng xảy ra chúng ta phải có thông tin chính xác về các mặt sau: Thời gian, địa điểm, phạm vi và số lượng, các biểu hiện vi phạm nghiêm trọng, yêu sách của họ là gì, tích cực hay tiêu cực, liên quan đến ai và ai là người giải quyết. Ai là người cầm đầu chỉ huy kể cả công khai và giấu mặt, số lượng những người quá khích, âm mưu và thủ đoạn của họ xem ý đồ của họ muốn gì ?, kế hoạch của họ ra sao, có sự can thiệp chỉ đạo của  bọn trong và ngoài nước hay không nắm được tâm trạng của số đông người nơi xảy ra điểm nóng ủng hộ hay phản đối những người tham gia điểm nóng, họ có bị lôi kéo, mua chuộc, khống chế không, nguyện vọng của họ lúc này là gì ?

+ Tình hình hoạt động của cấp uỷ Đảng, chính quyền nơi xảy ra điểm nóng như thế nào, có duy trì được vai trò lãnh đạo hay mất vai trò lãnh đạo. Thái độ của họ đối với việc xử lý điểm nóng như thế nào.

- Phải đánh giá đúng nguyên nhân phát minh điểm nóng, xác định xem nguyên nhân khách quan hay là nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân bên trong hay nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân sâu xa hay nguyên nhân trực tiếp.

- Xác định mâu thuẫn: Sau khi phân tích nguyên nhân cần xác định rõ các loại mâu thuẫn xem đây là mâu thuẫn đối kháng hay không đối kháng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân hay giữa dân với chính quyền, mâu thuẫn địch, ta, xem xét mức độ và sự đan xen giữa các mâu thuẫn.

* Bước 2: Thiết lập sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất phát huy vai trò của các binh chủng công tác tư tưởng và hiệu lực của hệ thống chính trị để giữ vững quyền lực chính trị, lựa chọn người chỉ huy, người trực tiếp tham gia vận động tuyên truyền giáo dục, thuyết phục phải có đủ uy tín bản lĩnh trí tuệ, có phương pháp đúng, có khản năng  chịu đựng và biết hoà mình vào quần chúng. Trong trường hợp cần thiết có thể thay đổi người chỉ huy, kiên trì vận động giáo dục thuyết phục đưa công tác tư tưởng đi trước một bước, phát huy dân chủ dựa vào dân và động viên nhân dân tham gia giải quyết điểm nóng. Có sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở để có biện pháp xử lý đúng đắn.

- Phải lựa chọn phương thức, lực lượng, phương tiện cần thiết để giải quyết điểm nóng, xác định rõ phương thức giải quyết là tuyên truyền vận động giáo dục thuyết phục hay trấn át, hay kết hợp cả 2 phương thức trên. Các lực lượng tham gia có thể là cấp uỷ ban tuyên giáo, mặt trận các đoàn thể quần chúng, những người có uy tín trong cộng đồng công an, quân đội.... có thể phát huy sức mạnh tổng hợp các phương tiện truyền thông đại chúng trong giải quyết điểm nóng.

- Sử dụng các phương thức, lực lượng phương tiện xử lý điểm nóng trong trong các trường hợp cụ thể để giải tán đám đông quần chúng cần tập trung cao độ làm công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục thuyết phục một cách kiên trì, bền bỉ, không dùng biện pháp hành chính mệnh lệnh, áp đặt với quần chúng ngay từ đầu. Giải quyết yêu sách của đám đông nếu yêu sách đó là chính đáng. Nếu không giải quyết được ngay thì phải cam kết với họ sớm đưa ra giải quyết. Đưa cán bộ vào đám đông để vận động lôi kéo thuyết phục những quần chúng tích cực, đồng thời để nhận diện và răn đe những kẻ quá khích. Khuyên giải đám đông gây rối tỉnh ngộ. Trong nhiều trường hợp cần vạch rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch để quần chúng hiểu rõ. Chia cắt đám đông thành các nhóm nhỏ, điều chuyển cách ly những đối tượng cầm đầu quá khích ra khỏi quần chúng. Trong trường hợp cần có thể sử dụng biện pháp mạnh buộc phải giải tán đám đông.

+ Đối với người cầm đầu.

. Nếu  người cầm đầu là phần tử xấu thì chúng ta cần đủ chứng lý để vạch trần thủ đoạn của họ, giúp quần chúng nhận thức rõ đúng sai.

. Nếu người cầm đầu là phản động liên quan đến phản động thì phải tìm cách bắt giữ nhưng bắt lúc nào ? bắt ở đâu ? xử lý như thế nào ? thì phải tính toán rất kỹ.

- Chuẩn bị phương án xử lý tình huống xấu nhất có thể xảy ra, ngăn ngừa nguy cơ lan toả sang nơi khác.

+ Lúc đầu phải giải quyết theo phương án tốt nhất để giải quyết, nếu tình hình phức tạp thì có thể chuyển sang phương án thứ 2, thứ 3.

+ Khi tình huống xấu nhất xảy ra thì phải ứng phó kịp thời không để rơi vào tình trạng lúng túng, bị động, bất ngờ.

+ Có biện pháp kiềm chế để không để điểm nóng bùng phát lớn và lan toả sang nơi khác như là dùng lực lượng vũ trang khống chế phong toả ở gần và xung quanh điểm nóng để yểm trợ khi cần thiết và để tách biệt điểm nóng với vùng lân cận. Có thể áp dụng các giải pháp khác như: Tăng cường chính trị tư tưởng, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân ở những vùng xung quanh điểm nóng.

* Bước 3: Khắc phục hậu quả, ổn định tình hình khi điểm nóng bị dập tắt.

- Đưa hoạt động nơi xảy ra điểm nóng trở lại với nhịp điệu bình thường, từ đó:

+ Phải khắc phục hậu quả của điểm nóng như thiệt hại về vật chất, tinh thần.... làm tốt công tác tư tưởng, tuyền truyền, vận động cán bộ Đảng viên, quần chúng nhân dân, xoá bỏ hận thù khôi phục sự đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau, ổn định công tác, ổn định cuộc sống.

+ Phải giáo dục ý thức đoàn kết thương yêu nhau trong nội bộ cơ quan đơn vị, trong nội bộ nhân dân, kêu gọi tình cảm cộng đồng, nêu cao truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước của nhân dân.

+ Xử lý đúng mức những người vi phạm để xảy ra điểm nóng và gây ra điểm nóng.

+ Kiện toàn, củng cố tổ chức, thanh lọc cán bộ sai lầm và lựa chọn cán bộ thay thế.

* Bước 4: Rút kinh nghiệm dự báo tình hình và áp dụng những giải pháp để điểm nóng không tái phát.

- Đánh giá rút kinh nghiệm, qua việc giải quyết điểm nóng cần đánh giá rút kinh nghiệm.

- Dự báo tình hình và áp dụng các giải pháp để điểm nóng không tái phát.

*. Một số giải pháp chủ yếu về nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

Thời gian qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã đạt được những kết quả, góp phần vào việc ổn định an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng. Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm, là biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin khách quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không những có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở thực tiễn để hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Vì vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; tạo cơ sở pháp lý trong giải quyết khiếu nại, tố cáo Nhà nước ta đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2005. Để phát huy và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của cả hệ thống chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 6-3-2002 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay.

Thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo và Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư, các ngành, các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhờ đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có những chuyển biến tích cực. Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa phương để chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo. Qua đó, đã kiến nghị các cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh nhiều cơ chế chính sách, pháp luật chưa phù hợp, khắc phục, chấn chỉnh những bất cập trong quản lý nhà nước.

Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình an ninh, chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số địa phương vẫn có chiều hướng gia tăng, số lượng các vụ việc khiếu kiện vượt cấp, đông người vẫn còn nhiều. Trong những người đi khiếu nại, tố cáo, có những người khiếu nại, tố cáo đúng, mong muốn được pháp luật giải quyết công minh; nhưng cũng có một số người mặc dù về việc khiếu nại đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng pháp luật, nhưng hoặc vì thiếu hiểu biết, hoặc vì cố chấp mà vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài. Một số người đi khiếu nại, tố cáo có thái độ gay gắt, cực đoan, có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở một số địa bàn.

Thời gian gần đây, có rất nhiều vụ việc khiếu nại liên quan đến đất đai. Nhiều trường hợp khiếu nại có liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, như đòi được bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư, giải quyết việc làm; đòi lại đất cũ, tranh chấp đất đai, nhà ở. Ngoài ra, có một số khiếu nại liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, kỷ luật của cán bộ, công chức... Về nội dung tố cáo, chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức làm sai chính sách, tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội, cổ phần hóa doanh nghiệp; thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, bao che người bị tố cáo, không xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.

Nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu nại, tố cáo hiện nay thì có nhiều nhưng chủ yếu là do cơ chế, chính sách, pháp luật còn có những bất cập, chưa phù hợp thực tế; công tác quản lý nhà nước còn có những yếu kém, sai phạm, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Trong nhiều trường hợp khiếu nại về bồi thường giải phóng mặt bằng, đòi lại đất nhưng thiếu cơ chế, chính sách để giải quyết thỏa đáng. Công tác quản lý nhà nước về đất đai ở một số địa phương còn buông lỏng, để xảy ra sai phạm. Quá trình thực hiện thu hồi đất của dân chưa đúng trình tự, thủ tục, thiếu công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng và trong một số trường hợp số tiền bồi thường, hỗ trợ chưa đủ để người dân tạo lập chỗ ở mới tốt hơn. Có một số dự án thu hồi đất sản xuất của dân nhưng không được sử dụng hợp lý, đất đai bỏ hoang, lãng phí, trong khi nông dân thiếu đất sản xuất, dẫn đến bức xúc, phát sinh khiếu nại. Khi phát sinh khiếu nại, tố cáo, một số chính quyền địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình, thiếu quan tâm giải quyết từ cơ sở, có nhiều vụ việc giải quyết chậm, thẩm tra, xác minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính xác, áp dụng pháp luật cứng nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, dân không đồng tình, tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để giải quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa tốt, còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trả lời thiếu thống nhất. Việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo và công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên có những vụ việc đơn giản vẫn phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, bọn phản động và phần tử cơ hội lợi dụng, kích động những người đi khiếu nại, tố cáo; tổ chức, lôi kéo khiếu kiện đông người, biến các vụ việc khiếu nại thuần túy trở thành vấn đề chính trị - xã hội, dẫn đến tình hình khiếu nại, tố cáo thời gian qua có những diễn biến phức tạp.

Từ thực trạng trên, nhận định tình hình khiếu nại, tố cáo trong thời gian tới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở một số địa bàn. Chủ trương hiện nay của Chính phủ là các cấp, các ngành phải nỗ lực hơn nữa trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, quan tâm giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng và kịp thời giải quyết các vụ việc mới phát sinh, không để công dân bức xúc kéo đi khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, không để kẻ xấu xen vào lợi dụng kích động gây rối. Đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cấp bách nhằm góp phần giữ vững ổn định an ninh - trật tự xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội cũng là thước đo chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi ngành. Để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhấtĐề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trước hết là nhờ vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền. Các cấp ủy có nghị quyết lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp chính quyền có kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết, các cơ quan nhà nước phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ khách quan, làm rõ nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo, kết luận rõ đúng, sai, đề ra phương án giải quyết phù hợp, có lý, có tình.

Thứ hai:  Các cơ quan nhà nước phải củng cố và chấn chỉnh công tác tiếp công dân, thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân, bố trí cán bộ có đủ năng lực, trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất đảm nhiệm công tác tiếp dân. Những vụ việc phức tạp các đồng chí lãnh đạo phải đích thân tiếp dân, đối thoại với công dân và trực tiếp chỉ đạo giải quyết với tinh thần "giải quyết để bảo đảm yên dân chứ không giải quyết xong việc". Khi xảy ra khiếu kiện đông người thì các cơ quan nhà nước phải tăng cường sự phối hợp để tiếp dân và vận động công dân trở về địa phương, đồng thời, có biện pháp giải quyết kịp thời, dứt điểm, không để kéo dài, tái khiếu kiện.

Thứ ba:  Các cơ quan thanh tra Nhà nước tăng cường thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ trưởng và cán bộ, công chức có trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, tập trung vào những nơi có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, đông người, phức tạp; chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo thấp; không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp trên... để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiến nghị chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý công khai, nghiêm minh những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, tăng cường hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ tư:  Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân; tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp hành pháp luật và các quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối với các trường hợp lợi dụng khiếu nại, tố cáo để kích động, gây rối thì phải tiến hành làm rõ, xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

Thứ năm:  Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; chấn chỉnh, tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân sách, chính sách xã hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công dân; đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hài hòa, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo.

VD:  Quá trình diễn biến và nguyên nhân diễn ra điểm nóng ở xã A.

*  Quá trình diễn biến :

Nguyện vọng của đa số nông dân muốn giảm các khoản đóng góp. Khi có chỉ thị số….. của huyện giảm một số khoản đóng góp về y tế, thú y, ngày công… thì Đảng bộ, UBND và Hội đồng nhân dân xã có bàn thực hiện nhưng chậm và không kiên quyết, còn nhân dân đòi hỏi giải quyết ngay. Từ ngày A tháng B năm C đến ngày D tháng Đ năm C, ở các bản trong xã nhân dân tự tổ chức họp (đề nghị trưởng bản triệu tập, nhưng trưởng bản từ chối), bàn đấu tranh thực hiện công văn ….. của huyện, và kéo lên UBND xã đòi giải quyết. Từ đấu tranh đòi thực hiện công văn ….. nhân dân đòi thanh tra toàn bộ kinh tế tài chính xã và đòi lại hơn ….. triệu đóng góp xây dựng trường học, nhưng xã chưa làm. 

* Nguyên nhân:

Điểm nóng A xuất hiện và diễn ra kéo dài mấy tháng với tính chất trầm trọng, có thể thấy rõ bởi do các nguyên nhân.

- Người nông dân trong xã phải đóng góp quá mức so với thu nhập bình quân chung của họ

- Cán bộ vi phạm quyền dân chủ với dân: Về thể chế chính trị nông thôn được cấu thành bởi các bộ phận Đảng, Chính quyền, các đoàn thể quần chúng và ban quản lý hợp tác xã.  

+ Về việc thu quá sức đóng góp của nhân dân lại đem chi tiêu bất hợp lý.

+ Về sự cưỡng chế của chính quyền, mất dân chủ.

Những bất bình trên tích đọng qua nhiều năm tháng bùng lên thành phong trào đấu tranh của quần chúng;  

Nguyên nhân nổ ra điểm nóng A còn do một số người vốn bất mãn, hiềm thù với cán bộ, chính quyền cơ sở, nhân cơ hội đứng ra tổ chức, kích động, xúi dục nhân dân để trả thù cá nhân.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, điểm nóng A về bản chất là mâu thuẫn không đối kháng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân đã phát triển đến đỉnh cao. Về cơ bản vẫn phong trào đấu tranh đòi dân chủ, công bằng, công khai của nông dân. Phong trào ấy không phải với mục đích chống Đảng, chống chế độ, lật đổ chính quyền mà muốn chính quyền trở lại đúng với bản chất của nó.

* Giải pháp:

Thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, cách mạng Việt Nam vừa đứng trước thời cơ, vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn không thể xem lường. Nắm bắt cơ hội, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức với tinh thần cách mạng tiến công, đưa cách mạng tiến lên mạnh mẽ, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chúng ta.

Để đảm bảo ổn định trật tự xã hội và xử lý tốt các tình huống chính trị cần tập trung vào một số giải pháp như sau:

- Thứ nhất: phải chủ động xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ thống nhất từ trên xuống dưới (4 cấp), trong đó cần đặc biệt quan tâm việc xác định ch rõ các giải pháp căn bản chiến lược làm cơ sở cho việc định ra một cách linh hoạt các giải pháp tình thế.

- Thứ hai: để cụ thể trong nhận thức và hành động, các giải pháp cần được phân loại để áp dụng cho phù hợp với mỗi tình hình cụ thể. Trong sự phân loại ấy, cần nên có sự phân biệt (tương đối) đâu là giải pháp đem lại lợi ích trực tiếp cho dân và đâu là giải pháp đem lại lợi ích của hệ thống chính trị từ đó, về nguyên tắc, các giải pháp đem lại lợi ích cho dân phải được xem là cao nhất và chi phối các giải pháp khác. Hai loại giải pháp này, nếu xuất phát từ chủ thể giải quyết điểm nóng là Đảng và Nhà nước thì có thể gọi giải pháp đem lại lợi ích trực tiếp cho dân và giải pháp hướng ngoại, còn giải pháp kia là giải pháp hướng nội. Vì thế cần hết sức tranh việc đưa ra các giải pháp có thể đẩy dần vào phía đối lập với Đảng và chính quyền ở các cấp. Bởi vì, điểm nóng thực chất vẫn là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

- Thứ ba: cần có các giải pháp cụ thể tương ứng cho mỗi một quá trình diễn biến của điểm nóng. Điểm nóng chỉ phát sinh khi các mâu thuẫn đã vận động trong suốt một quá trình: mâu thuẫn từ lợi ích kinh tế dẫn đến mâu thuẫn xã hội và rồi mâu thuẫn tiếp tục lan đến, tác động vào lĩnh vực chính trị. Vì thế cần có giải pháp cụ thể, đón đầu ở mỗi một quá trình đó.

 

Từ thực tế cho thấy có thể khẳng định: Điểm nóng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, ngăn chặn và giải quyết điểm nóng ở mức độ nào đó là phụ thuộc vào quyết định, vào vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý kinh tế – xã hội của chính quyền, vai trò đại diện quyền làm chủ của nhân dân, của các tổ chức, cá nhân người lãnh đạo, quản lý. ở đâu cán bộ có trí tuệ, bản lĩnh, trung thực và trong sạch, gần gũi, gắn bó, biết chăm lo tới đời sống của nhân dân thì ở đó không xảy ra điểm nóng và ngược lại, ở đâu có tham nhũng, có vi phạm lợi ích kinh tế – chính trị, quyền làm chủ của nhân dân thì ở đó tất yếu sinh ra điểm nóng.

Như vậy rõ ràng là cán bộ ở các cấp có vai trò quan trọng trong việc dập tắt điểm nóng cũng như ngăn ngừa điểm nóng xảy ra. Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để đặt chính sách cho đúng.

Do đó, xây dựng nền dân chủ XHCN là cả một quá trình biến đổi cách mạng to lớn đòi hỏi phải phấn đấu kiên trì, bền bỉ. Sự phát triển tốt của kinh tế, văn hóa, chính trị luôn luôn tạo điều kiện phát triển dân chủ tốt hơn, cao hơn. Ngược lại, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, giữ vững ổn định chính trị.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa mà khâu quan trọng là dân chủ ở cơ sở là một vấn đề có tầm vóc chiến lược, liên quan đến sự sống còn của đất nước và chế độ mới.

*. Bài học kinh nghiêm:      

Xuất phát từ thực tiễn điểm nóng ở xã A chúng ta rút ra được một số kinh nghiêm:

- Cần hoàn thiện, bổ sung và xây dựng  mới những chính sách, chủ trương trên tầm vĩ mô về phát triển kinh tế nông nghiệp, xã hội nông thôn và giai cấp nông dân, phù hợp kịp thời với thời kỳ phát triển hiện nay.

Đảng ta lãnh đạo xã hội, trong đó có giai cấp nông dân, là nhằm đem đến cho họ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Giai cấp nông dân Việt Nam bên cạnh những ưu điểm còn có nhiều hạn chế so với các giai cấp lao động khác. Vì thế các chính sách chủ trương, pháp luật trực tiếp tác động vào nông nghiệp , nông thôn và  nông dân là tối quan trọng. Tuy nhiên, từ sự kiện điểm nóng xã A có thể khẳng định hiện nay chính sách của ta còn có nhiều nội dung phải được nhanh chóng bổ sung và thay đổi. Tuy nhiên bên cạnh chính sách về phát triển kinh tế cần có chính sách phát triển họ với tính cách là một giai cấp, xã hội được ưu đãi. Chỉ có như thế, người nông dân mới được phát triển toàn diện, công bằng và mới bớt đi tâm lý mặc cảm, người nông dân nông thôn  bị bỏ rơi. Đặc biệt phải coi trọng quy trình thể chế hoá chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có tính khả thi để không xảy ra tình trạng mâu thuẫn, hiểu sai chủ trương, chính sách.

 - Ra sức kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị các cấp ở địa phương. 

Trong đó, cấp cơ sở và cấp huyện cần được quan tâm hàng đầu. Kiện toàn hệ thống chính trị toàn diện từ thể chế, bộ máy cho đến con người chính trị trong đó yếu tố con người được xem là nhân tố quyết định. Việc kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị các cấp địa phương nơi có điểm nóng diễn ra có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại thực của Đảng và nhà nước ta. Đồng thời nó cũng là nhân tố lấy lại niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nước làm cho kẻ địch không có cơ hội để giành lấy dân, lấn lướt một cách dễ dàng.

-  Nhanh chóng thống nhất về nhận thức và giải pháp ở tất cả các cấp, kiện toàn và khôn khéo trong việc đấu tranh chống bọn quá khích, cơ hội và bọn tội phạm xã hội, xem đó là một trong những nội dung đấu tranh trong thời kỳ mới.

Kinh nghiệm cho thấy khi xảy ra điểm nóng mà các cấp không có và chậm thống nhất về nhận thức bản chất vấn đề, các giải pháp thì nhất định sẽ làm cho “nóng” trở thành “sôi” đơn giản trở thành phức tạp. Nhiều vụ việc rất đáng tiếc lại thường xảy ra từ tình hình này. Không chỉ như thế, tai hại tiếp nữa là làm cho giữa các cấp nảy sinh tình trạng  tranh công đổ lỗi dẫn đến mâu thuẫn có khi gay gắt.

Quá trình diễn biến điểm nóng thường xuất hiện cơ hội, quá khích “đổ dầu vào lửa”. Với số lượng này chỉ có khôn khéo và cương quyết trừng phạt, mọi biểu hiện do dự hữu khuynh ở đây là điều nguy hiểm cho ta. Song cái khó ở đây là khi đám đông quần chúng đang nóng, họ ít có khả năng phân biệt chính - tà và cấp cơ sở đang lúng túng, thậm chí tê liệt nên rất khó có thể ra tay kịp thời. Vì thế việc này phụ thuộc vào khả năng nắm bắt đối tượng từ trước đó là: Phụ thuộc vào các cấp trên. Nó đòi hỏi một cách quyết định vào trình độ văn hoá chính trị của chủ thể giải quyết ra sao.

Ngoài ra, ta thấy điểm nóng diễn ra và kéo dài, kẻ thù của giai cấp và của chế độ sẽ không bỏ lỡ cơ hội, tác động vào nhằm làm cho tình hình xấu thêm dẫn đến khủng hoảng chính trị để cuối cùng lượng sức dân lật đổ sự lãnh đạo của Đảng - Cho nên chúng ta phải hết sức cảnh giác trước sự phá hoại của kẻ địch bằng diễn biến hoà bình khi điểm nóng xảy ra.

*. Giải pháp chủ yếu trong việc nâng cao chất lượng công tác dân vận và thực hiện hiệu quả thiết thực quy chế dân chủ ở địa phương  cơ sở cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan nhà nước các cấp trong tỉnh đã có nhiều giải pháp để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức, làm chuyển biến về tinh thần trách nhiệm đối với công tác này.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi phải tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Và đây cũng là một trong những biện pháp nhằm thực hiện chủ đề của Tỉnh ủy "Tăng cường xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, biến lời nói thành hành động".

Chính quyền các cấp, các cơ quan nhà nước đã có nhiều đổi mới trong việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng thời, chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, mang lại hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình cao, như chính sách hỗ trợ đối với người nghèo; hỗ trợ nông dân, ngư dân vay vốn phát triển sản xuất; hỗ trợ xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ doanh nghiệp; chuyển đổi các trường công lập tự chủ tài chính sang loại hình trường công lập; có cơ chế thu hút, sử dụng sinh viên tốt nghiệp đại học đạt loại giỏi, xuất sắc, sinh viên tốt nghiệp đại học là con em địa phương chưa có việc làm; chính sách đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc; phụ cấp cán bộ bán chuyên trách ở cơ sở...

Việc thực hiện Quy chế dân chủ từng bước đi vào nền nếp; qua đó, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đặc biệt, trong thực hiện phong trào “ Xây dựng nông thôn mới ” các cấp chính quyền đã tích cực vận động nhân dân tự nguyện hiến đất, hiến tài sản, đóng góp tiền, ngày công lao động với giá trị hàng trăm triệu đồng để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đến hết năm 2017, toàn xã đã có 3/6 bản đạt chuẩn nông thôn mới;

( Đ/C: Lương Thị Hạnh – PCT UBND huyện phát biểu tại lễ đón nhận danh hiệu xã Tam Lư đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới 2016 )

*. Các giải pháp chủ yếu cần thực hiện:

Một là:  Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác dân vận được thể hiện ở việc kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với các cuộc vận động, chỉnh đốn, xây dựng Đảng. Đồng thời, phát huy sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, khẳng định sự tin tưởng của nhân dân đối với Đảng. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nắm vững, kiên định với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong bối cảnh hiện nay tạo động lực để các tầng lớp nhân dân đóng góp tích cực vào sự phát triển KT-XH – ANQP  của xã. Xác định rõ trách nhiệm công tác dân vận là của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên, các đoàn thể nhân dân. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, trong họ tộc, tạo điều kiện để họ tham gia tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan tỏa của công tác dân vận trong tình hình mới.

Hai là:  Quan tâm đẩy mạnh công tác dân vận trong cơ quan UBND  cấp xã, các trường học; chú trọng triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách nề nếp, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao trình độ văn hóa giao tiếp, ứng xử cho cán bộ, công chức, giáo viên, nhân viên trong mối quan hệ với nhân dân nhằm tăng cường sự hài lòng, ghi nhận của nhân dân. Công khai các quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức để nhân dân biết và giám sát. Chủ động nắm tình hình, tăng cường tiếp xúc đối thoại với nhân dân, tập trung giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong nhân dân và cộng đồng như: chính sách về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…giải quyết kịp thời chế độ chính sách an sinh xã hội trên địa bàn xã.  Xây dựng hình ảnh người cán bộ tận tụy với công việc, trách nhiệm, thân thiện và quý trọng nhân dân. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành và vận động nhân dân của chính quyền,  xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh, thực sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Ba là:  Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, hướng về thôn bản, đa dạng hình thức tập hợp đoàn viên, hội viên và nhân dân, khắc phục hành chính hóa trong hoạt động; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên viên, hội viên và nhân dân. Tăng cường lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, "dân vận khéo", tăng cường phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác dân vận...nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát KT - XH - ANQP trên địa bàn. 

Bốn là: Thường xuyên quan tâm công tác xây dựng, kiện toàn củng cố Khối dân vận, tổ dân vận, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận và các đoàn thể, nâng cao chất lượng tham mưu về công tác dân vận ở các cấp ủy. Chú trọng đào tạo cán bộ tham mưu sâu về các lĩnh vực công tác dân vận, nhất là công tác tôn giáo, vận động trí thức, doanh nhân trong tình hình mới; quan tâm cán bộ không chuyên trách, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận nhằm cường kỹ năng công tác dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân, quan tâm cán bộ làm công tác mặt trận, các đoàn thể cấp xã và thôn bản.

Năm là: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, trú trọng công tác vận động nhân dân thực hiện 5 quy chế dân chủ trong các loại hình mới. Thường xuyên nắm bắt tình hình đời sống tâm tư nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn những hạn chế tồn tại. Kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng các tập thể thể, cá nhân điển hình trong công tác vận động quần chúng trong tình hình mới;

Kết quả hình ảnh cho ẢNH ĐẸP VỀ XÃ TAM LƯ

( Đ/C: Nguyễn Văn Đồng – CT: UBND huyện trao giấy khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác vận động XDNTM Bản Hậu, xã Tam Lư. )

Đồng thời kiểm điểm, phê bình những tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, có hành vi vi phạm trong thực hiện nhiệm vụ.

Sáu là:  Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương  cần đổi mới công tác học tập, quán triệt Nghị quyết theo 4 công đoạn:

+ Thứ nhất: Xây dựng chương trình hành động triển khai quán triệt, thực hiện nghị quyết, chương trình hành động với nội dung ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, nhấn mạnh những vấn đề thiết thực gắn liền với quyền và nghĩa vụ của người dân:

+ Thứ hai: Tổ chức thảo luận từ chi bộ để cán bộ, đảng viên nói lên ý kiến của mình cũng như tìm hiểu sâu hơn tinh thần của nghị quyết;

+ Thứ ba: Tổ chức giải đáp để tạo sự nhận thức sâu sắc hơn nội dung của Nghị quyết:

+ Thứ tư: Tổ chức viết bài thu hoạch sau khi cán bộ đảng viên đã được học tập, quán triệt Nghị quyết. Nội dung và cách thức phát động các phong trào thi đua yêu nước cũng cần được quan tâm nghiên cứu đổi mới theo hướng: Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức vận động sát với thực tế của địa phương, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, thời điểm; sáng tạo trong lồng ghép, kết hợp các phong trào thi đua, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong nhân dân./.

Top of Form